Lý thuyết lợi ích

Nhìn chung, các mong muốn của người tiêu dùng về một sản phẩm cụ thể có thể được đáp ứng đầy đủ trong một khoảng thời gian nhất định với giả định sở thích không thay đổi. Tuy nhiên, càng có nhiều sản phẩm thì mong muốn trên mỗi đơn vị sản phẩm đó sẽ ít đi. Để giải thích cho điều này, chúng ta hãy xem xét khái niệm về lợi ích và lợi ích biên.

1. LỢI ÍCH

Khái niệm

Lý thuyết lựa chọn dựa trên khái niệm về lợi ích. Lợi ích được định nghĩa như là mức độ thỏa mãn hay hài lòng liên quan đến các lựa chọn tiêu dùng. Lợi ích có hai đặc tính cần nhấn mạnh sau:

ª Lợi ích và “hữu dụng” là không đồng nhất nhau.

Chẳng hạn, tranh của Picasso có lẽ không hữu dụng trong cuộc sống, nhưng lại có lợi ích cực kỳ lớn đối với các nhà nghệ thuật.

ª Lợi ích thường không giống nhau đối với mỗi người khi tiêu dùng cùng sản phẩm.

Chẳng hạn, kính thuốc có lợi ích lớn đối với người cận hoặc viễn thị, nhưng không có lợi ích đối với người có mắt bình thường.

Các nhà kinh tế giả định rằng mỗi cá nhân phải đưa ra sự lựa chọn trong số các lựa chọn tiêu dùng và cá nhân sẽ lựa chọn tiêu dùng đem lại lợi ích cao nhất.

Tổng lợi ích và lợi ích biên

Tổng lợi ích (U) là mức độ hài lòng hay thỏa mãn liên quan đến việc tiêu dùng một lượng hàng hóa. Trong khi đó, lợi ích biên (MU) là lợi ích tăng thêm khi người tiêu dùng tăng thêm một đơn vị tiêu dùng hàng hóa. Bảng dưới đây minh họa mối quan hệ giữa tổng lợi ích và lợi ích biên liên quan đến tiêu dùng của cá nhân đối với bánh pizza (trong một khoảng thời gian nhất định).

Bảng trên cũng minh họa một hiện tượng được biết như là qui luật lợi ích biên giảm dần. Qui luật này phát biểu rằng lợi ích biên giảm dần theo số lượng hàng hóa tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định, ceteris paribus. Trong ví dụ ở trên, lợi ích biên của chiếc bánh pizza tăng thêm sẽ giảm khi tiêu dùng nhiều chiếc bánh pizza hơn (trong một khoảng thời gian nhất định). Trong ví dụ này, lợi ích biên của tiêu dùng chiếc bánh pizza thứ năm sẽ âm. Lưu ý rằng mặc dầu lợi ích biên giảm dần nhưng tổng lợi ích vẫn tăng miễn là lợi ích biên còn dương. Tổng lợi ích sẽ giảm chỉ khi lợi ích biên là âm. Thực tế, hầu hết các hàng hóa đều có qui luật lợi ích biên giảm dần.

2. MÔ HÌNH LỰA CHỌN TIÊU DÙNG

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét cách thức sử dụng khái niệm lợi ích biên để giải thích lựa chọn tiêu dùng. Như đã đề cập ở trên, các nhà kinh tế giả định cá nhân đưa ra quyết định lựa chọn trong số các lựa chọn tiêu dùng. Khi đó, người tiêu dùng sẽ lựa chọn tiêu dùng đem lại lợi ích cao nhất.

Giả sử người tiêu dùng chi tiêu tất cả thu nhập (I) vào hàng hóa X và Y, người tiêu dùng phải tối đa hóa lợi ích (U) thỏa mãn ràng buộc ngân sách chi tiêu. Khi đó, người tiêu dùng phải:

Hàm mục tiêu:                  U = f(QX, QY) → Max

Ràng buộc:                        PXQX + PYQY ≤ I

Sử dụng phương pháp toán tử Largrange để giải quyết vấn đề trên. Để làm được điều đó, trước hết phải thiết lập hàm số Largrange như sau:

L = f(QX, QY) + λ(I – PXQX – PYQY)

Để tối đa hóa L, chúng ta tính đạo hàm từng phần của L theo QX, QY, λ và đặt chúng bằng không. Khi đó,

Điều kiện thứ nhất cho biết lợi ích biên trên mỗi đồng tiêu dùng của tất cả các hàng hóa phải bằng nhau. Để thấy tại sao có điều này, chúng ta hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra khi điều kiện trên không thỏa mãn. Cụ thể, chúng ta giả định rằng lợi ích của một đồng tiêu dùng sau cùng vào hàng hóa X là 10, trong khi lợi ích của một đồng sau cùng tiêu dùng vào hàng hóa Y là 5. Từ khi một đồng tiêu dùng thêm vào hàng hóa X đem lại nhiều lợi ích hơn so với một đồng tiêu dùng thêm vào hàng hóa Y, cá nhân muốn tối đa hóa lợi ích sẽ tiêu dùng nhiều hơn vào hàng hóa X và tiêu dùng ít hơn vào hàng hóa Y. Giảm chi tiêu một đồng vào hàng hóa Y làm giảm 5 đơn vị lợi ích, nhưng tăng một đồng tiêu dùng vào hàng hóa X đem lại thêm 10 đơn vị lợi ích. Vì vậy, việc chuyển một đồng tiêu dùng hàng hóa Y sang hàng hóa X đem lại cho cá nhân lợi ích ròng là 5 đơn vị lợi ích. Càng tiêu dùng nhiều hàng hóa X thì lợi ích biên của X sẽ giảm tương đối so với lợi ích biên của Y. Cá nhân sẽ tiêu dùng nhiều X hơn Y cho đến khi nào lợi ích biên của một đồng tiêu dùng sau cùng vào hàng hóa X bằng với lợi ích biên của một đồng tiêu dùng sau cùng vào hàng hóa Y. Điều kiện thứ nhất đôi khi được xem như là “nguyên tắc cân bằng biên”.

Mô hình tiêu dùng ở trên là mô hình một thời kỳ mà ở đó giả định cá nhân không tiết kiệm hay vay mượn. Khi đó, điều kiện thứ hai đó là tất cả thu nhập phải được chi tiêu. Dĩ nhiên, một mô hình đầy đủ nhất thiết phải xem xét các điều kiện về tiết kiệm và vay mượn cho nhiều thời kỳ. Điều kiện thứ nhất chỉ là điều kiện cần để tối đa hóa lợi ích, các kết hợp tiêu dùng có thể thỏa mãn điều kiện này. Tuy nhiên, chỉ có kết hợp tiêu dùng thỏa mãn điều kiện thứ hai (điều kiện đủ) thì cá nhân sẽ tối đa hóa lợi ích tiêu dùng.

Khi kết hợp tiêu dùng thỏa mãn hai điều kiện trên, cá nhân đạt được trạng thái cân bằng tiêu dùng. Một trạng thái cân bằng mà ở đó cá nhân xác định đượng số lượng và ngân sách tiêu dùng cho mỗi hàng hóa tiêu dùng để đạt được tối đa hóa lợi ích (Dĩ nhiên, trừ khi cá nhân có sự thay đổi sở thích, thu nhập và giá cả liên quan).

3. CÂN BẰNG TIÊU DÙNG VÀ ĐƯỜNG CẦU

Khái niệm cân bằng tiêu dùng có thể được sử dụng để giải thích hệ số góc âm của đường cầu người tiêu dùng. Giả sử, cá nhân chỉ tiêu dùng vào hai hàng hóa X và Y. Tại điểm cân bằng tiêu dùng:

Chúng ta hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu như giá của X tăng lên. Từ công thức ở trên, chúng ta nhận thấy rằng lợi ích biên trên một đồng tiêu dùng của X sẽ giảm xuống khi giá của X tăng lên. Để xác định điểm cân bằng tiêu dùng mới, cá nhân sẽ tăng tiêu dùng vào hàng hóa Y và giảm chi tiêu vào hàng hóa X. Sự thay đổi tổ hợp tiêu dùng này gọi là tác động thay thế. Khi hàng hóa X trở nên đắt hơn thì lượng tiêu dùng vào hàng hóa X giảm là do tác động thay thế.

Ngoài tác động thay thế, một tác động khác xảy ra khi có sự thay đổi giá của hàng hóa, đó là tác động thu nhập. Trong ví dụ trên, hàng hóa X trở nên đắt hơn, cá nhân không đủ khả năng để trang trải cho kết hợp tiêu dùng hàng hóa X và Y như trước đây. Tác động thu nhập này làm giảm lượng cầu tiêu dùng đối với tất cả hàng hóa thông thường. Nếu như X là hàng hóa thông thường, khi giá của X tăng lên thì X chịu tác động thay thế và tác động thu nhập. Cả hai tác động này làm giảm lượng cầu đối với hàng hóa X.

Mặt khác, sự tăng giá của X không chỉ ảnh hưởng đến lượng cầu của hàng hóa X, mà còn tác động đến lượng cầu hàng hóa Y. Tăng giá hàng hóa X làm tăng lượng cầu của hàng hóa Y do tác động thay thế, trong khi đó năng lực mua sắm thực tế của người tiêu dùng giảm do giá X tăng lên. Điều này không chỉ làm giảm lượng cầu tiêu dùng hàng hóa X mà còn giảm lượng cầu tiêu dùng đối với hàng hóa Y, đó là do tác động thu nhập. Vì vậy đối với hàng hóa Y, nếu tác động thay thế lớn hơn tác động thu nhập thì lượng tiêu dùng của hàng hóa Y tăng lên. Ngược lại, nếu tác động thay thế nhỏ hơn tác động thu nhập thì lượng cầu của hàng hóa Y sẽ giảm. Tác động tổng hợp là tổng của tác động thay thế và tác động thu nhập.