Chứng từ bảo hiểm

1. Bản chất, nội dung của chứng từ bảo hiểm

Chứng từ bảo hiểm là chứng từ do người/tổ chức bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm, nhằm hợp thức hóa hựp đồng bảo hiểm và được dùng để điều tiết quan hệ giữa tổ chức bảo hiểm và người được bảo hiểm. Trong mối quan hệ này, tổ chức bảo hiểm nhận bồi thường cho những tổn thất xảy ra vì những rủi ro mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, còn người được bảo hiểm phải nộp cho người bảo hiểm một số tiền nhất định là phí bảo hiềm.

Chứng từ bảo hiểm thường được dùng là đơn/hợp đồng bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm:

  • Đơn bảo hiểm (insurance policy) là chứng từ do tổ chức bảo hiềm cấp, bao gồm những điều khoản chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm, nhằm hợp thức hóa hợp đồng này. Đơn bảo hiểm gồm có:
    • Các điều khoản chung và có tính chất thường xuyên, trong đó người ta qui định rõ trách nhiệm của người bảo hiểm và người được bảo hiềm.
    • Các điều khoản riêng về đối tượng bảo hiểm (Tên hàng, số lượng, ký mă hiệu, tên phương tiện chở hàng…) và việc tính toán phí bảo hiểm (trị giá bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm…).
  • Giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance certificate) là chứng từ do người bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm để xác nhận hàng hóa bảo hiểm theo điều kiện hợp đồng.

Nội dung của giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ bao gồm điều khoản nói lẽn đối tượng được bảo hiểm, các chi tiết cần thiết cho việc tính toán phí bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm đã thỏa thuận.

2. Qui định của UCP về chứng từ bảo hiểm

Điểu 34 – UCP 500: Chứng từ bảo hiểm.

  1. Các chứng từ bảo hiểm phải do các công ty bảo hiểm hoặc những người bảo hiểm hoặc các đại lý của họ phát hành và được ký tên.
  2. Trừ khi tín dụng qui định khác, nếu chứng từ bảo hiểm được phát hành nhiều bản gốc, thì tất cả các bản gốc phải được xuất trình.
  3. Các phiếu bảo hiềm do các nhà môi giới bảo hiểm cắp sẽ khổng được chấp nhận, trừ khi được tín dụng cho phép rỗ ràng.
  4. Trừ khi tín dụng qui định khác, các ngân hàng sẽ chấp nhận giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc tờ khai bảo hiểm bao được ký trưởc bời các công ty bảo hiểm hoặc những người bảo hiểm hoặc các đại lý của họ. Nếu một tín dụng yêu cầu rõ ràng giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc tờ khai bảo hiểm bao, thỉ các ngân hàng sẽ chấp nhận đơn bảo hiểm thay thế chúng.
  5. Trừ khi tín dụng qui định khác, hoặc trừ khi chứng từ bảo hiểm cho thấy rằng bảo hiểm có hiệu lực chậm nhất kể từ ngày bốc hảng lên tàu hoặc gửi hàng đi hoặc nhận hàng đề gửi. Các ngân hàng sẽ không chấp nhận một chứng từ bảo hiểm có đề ngày phát hành sau ngày bốc hàng lên tàu hoặc gừi hàng đi hoặc nhận hàng để gửi như được ghi ở trên chứng từ vận tải.
  6. Trừ khi tín dụng qui định khác loại tiền ghi trong chứng từ bảo hiểm phải là loại tiền ghi trong tín dụng.
  7.  Trừ khi tín dụng qui định khác số tiền tối thiểu mà chứng từ bảo hiềm ghi là đã được bảo hiểm phải trả là giá CIF (giá hàng, phí bảo hiểm và tiền cước chuyên chờ… “cảng đến qui định”) hoặc giá CIP (cước/phí chuyên chờ và phí bảo hiểm trả đến… “nơi qui định”) của hàng hóa, tùy trường hợp, cộng thêm 10%, nhưng chĩ khi giá CIF hoặc CIP có thể xác định được từ căn cứ trên chứng từ. Mặt khác, các ngân hàng sẽ chấp nhận số tiền nào lớn hơn giữa giá trị 110% số tiền phải trả, chấp nhận hoặc chiết khấu theo yêu cầu trong tín dụng với 110% tổng số tiền hóa đơn làm số tiền bảo hiểm tối thiểu.

Điều 35 ” UCP 500: Các loại bảo hiểm.

  1. Các tín dụng phải chỉ rõ loại bảo hiểm phải mua và, nếu cần, những rủi ro thêm phải mua bảo hiểm. Không nên dùng những từ ngữ không rõ ràng như “rủi ro thông thường” hoặc “rủi ro theo tập quán”, những từ ấy được dùng thì các ngân hàng sẽ cháp nhận các chứng từ bảo hiểm theo như xuất trình mà không chịu trách nhiệm về bất kỳ rủi ro nào không được bảo hiểm.
  2. Nếu như trong tín dụng không có những chỉ thị cụ thể các ngân hàng sẽ chấp nhận những chứng từ bảo hiểm theo như xuất trình mà không chịu trách nhiệm về bất kỳ rủi ro nào không được bảo hiểm.
  3. Trừ khi tín dụng qui định khác, các ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ bảo hỉểm ghi rõ bảo hiểm có mức miễn bồi thường được trừ hoặc không được trừ.

Điều 36 – UCP 500: Bảo hiểm mọi rủi ro.

Trong trường hợp tín dụng qui định “bảo hiềm mọi rủi ro” thỉ các ngân hàng chấp nhận chứng từ bảo hiểm có lời ghi chú hoặc điều khoản “mọi rủi ro” dù có hay không có tiêu đề mọi rủi ro ngay cả khi chứng từ bảo hiểm có ghi là một số rủi ro nào đó không được bảo hỉểm, mà không chịu trách nhiệm về bất cứ rủi ro nào không được bảo hiềm.

Điều 28 – UCP 600: Chứng từ bảo hiểm & giá trị được bảo hiểm

a. Chứng từ bảo hiểm, cũng như hợp đồng bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc tờ khai bảo hiểm bao thì phải thể hiện là do các công ty bảo hiểm, những người bán bảo hiềm hoặc các đại lý của họ hoặc những người được họ ủy nhiệm phát hành và ký tên.

Bất kỳ chữ ký nào của đại lý hay người được ủy nhiệm phải ghi rõ là đại lý hay người được ủy nhiệm đó hay đại diện cho công ty bảo hiểm hoặc ký thay hay đại diện cho công ty bảo hiểm.

b. Khi chứng từ bảo hiểm có ghi rõ là nó đưực phát hành nhiều bản chính, thì tất cả các bản chính phải được xuất trình.

c. Các phiếu bảo hiểm sẽ không được chấp nhận.

d. Một hợp đồng bảo hiểm được chấp nhận thay cho giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc tờ khai bảo hiểm bao.

e. Ngày của chứng từ bảo hiểm không được trễ hơn ngày giao hàng, trừ khi chứng từ bảo hiểm thể hiện rằng bảo hiểm có hiệu lực kể từ ngày không trễ hơn ngày giao hàng.

f. Chứng từ bảo hiểm phải ghi rõ số tiền được bảo hiểm và ghi cùng với đồng tiền ghi trong thư tín dụng.

g. Quy định của thư tín dụng về giá trị được bảo hiểm tính theo tỷ lệ trên giá trị hảng hóa, trên giá trị của hóa đơn hoặc tương đương như vậy được xem như số tiền được bảo hiểm tối thiểu theo quy định.

Nếu thư tín dụng không có chỉ dẫn gì về giá trị được bảo hiểm được quỵ định, thì số tiền được bảo hiềm tối thiểu phải bằng 110% giá hàng theo điều kiện CIF hoặc theo điều kiện CIP.

Khi giá CIF hoặc giá CIP không thề xác định được dựa trên chứng từ, thì số tiền được bảo hiểm phải được tính toán trên cơ sờ chọn lấy số tiền lớn hơn giữa số tiền phải thanh toán hoặc chiết khấu với tổng trị giá hàng hóa ghi trên hóa đơn.

h. Chứng từ bảo hiểm phải ghi rõ rủi ro được bảo hiểm ít nhất từ nơi giao hàng hoặc nơi nhận hàng để gửi đến nơi dỡ hàng hoặc nơi đến cuối cùng theo quy định của thư tín dụng.

i. Thư tín dụng phải ghi rõ loại bảo hiểm quy định và, nếu cần, những rủi ro thêm phải mua bảo hiểm. Chứng từ bảo hiểm cũng sẽ được chấp nhận không kể đến có bất kỳ rủi ro nào không được bảo hiểm nếu thư tín dụng quy định những từ không rõ ràng như “rủi ro thông thường” hoặc “rủi ro theo tập quán”.

j. Khi thư tín dụng quy định bảo hiểm “mọi rủi ro” và chứng từ bảo hiểm được xuất trình cỏ ghi chú hoặc điều khoản “mọi rủi ro” cho dù có hay không có tiêu đề “mọi rủi ro” thì chứng từ bảo hiểm đó vẫn được chấp nhận mà không xem xét đến bất kỳ rủi ro nào được quy định mà không được bảo hiểm.

k. Chứng từ bảo hiểm có thể chứa dẫn chiếu về bất kỳ điều khoản miễn trừ nào.

l. Chứng từ bảo hiềm có thể ghi mức bồi thường tính theo giá trị háng hóa mua bán hoặc tính theo mức vượt trội hơn giá trị đố (được trừ lùi lại).

3. Những nội dung cần chú ý khỉ kiểm tra chứng thư bảo hiểm

  • Chứng thư bảo hiểm có đúng loại ưc qui định không? (ỉà loại Certof Insurance hay là loại Insurance policy).
  • Bộ chứng từ bảo hiểm lập thành mấy bản gốc. (thường lập thành 2 bản). Tất cả bản gốc có được xuất trình đầy đủ không? (UCP 500 34, UCP 600 Art. 28).
  • Chứng từ bảo hiểm do ai cấp? (Ngân hàng chỉ chấp nhận chứng từ do các công ty bảo hiểm hoặc những người bảo hiểm hoặc các đại lý của họ phát hành và được ký tên, ngân hàng không chấp nhận chứng từ bảo hiểm do môi giới bảo hiểm cấp, trừ khi L/C cho phép rõ ràng) (UCP 500 Art.34, UCP 600 28).
  • Chứng từ bảo hiểm có được ghi ngày tháng và ký không? Ngày lập chứng từ bảo hiểm phải ghi rõ là “Bảo hiểm có hiệu lực chậm nhất là vào ngày bắt đầu vận chuyển” thì mới được xem là hợp lệ.
  • Tính lại số tiền được bảo hiểm có đúng yêu cầu của L/C không?
  • Loại tiền ghi trong chứng từ bảo hiểm có phải là loại tiền ghi trong L/C? nếu ưc qui định trả bằng đồng tiền khác đồng tiền dùng trong thanh toán thì phải kèm chỉ thị về tỷ giá sẽ được áp dụng và trên hợp đồng bảo hiểm cũng phải ghi rõ như vậy.
  • Loại bảo hiềm phải mua có đúng như ƯC qui định không?
  • Các chi tiết về tên người mua bảo hiểm. Khi L/C quỉ định phải có hợp đồng bảo hiểm trong bộ chứng từ thì người mua bảo hiểm phải là người bán, hoặc là người cung cấp hàng hóa (lúc này giá bán là CIF, ..) nếu là người bán thi tên và địa chỉ phải ghi giống như trên L/C và thống nhất với các chứng từ khác. Nếu là người cung cấp khác thì tên, địa chỉ phải thống nhất với các chứng từ khác.
  • Chửng từ bảo hiểm có được người bán ký hậu không?
  • Hồ sơ khiếu nại trình tại đâu? Có đúng qui định của L/C không?
  • Lộ trình và phương thức vận chuyển có phù hợp với L/C không?
  • Các chi tiết về tên phương tiện vận tải, cảng đi, cảng đến, hàng hóa có phù hợp với ưc và các chứng từ cố liên quan khác không?