Vai trò của chính phủ đối với tự do thương mại quốc tế

Theo như lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so sánh của David Ricardo, tất cả các quốc gia đều có sự giới hạn nguồn lực quốc gia bao gồm tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, trình độ khoa học công nghệ…. Vì vậy, mọi các quốc gia đều nhập khẩu những sản phẩm mình không có lợi thế sản xuất, hoặc không có điều kiện sản xuất để phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng của người dân trong nước. Ngoài ra, người tiêu dùng trong nước cũng có tâm lý, thị hiếu tiêu dùng đa dạng như tâm lý chuộng hàng ngoại, dùng hàng hóa có xuất xứ tốt cũng khiến cho việc trao đổi, mua bán hàng hóa trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Thực tế đã chứng minh mở cửa thị trường thương mại quốc tế giúp hàng triệu người thoát nghèo, giúp đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát triển của các quốc gia. Tự do hóa thương mại tạo ra của cải vật chất cho xã hội đáp ứng nhu cầu và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của họ; việc tạo lên các rào cản thương mại sẽ khiến cho các quốc gia và người dân của họ nghèo đi. Vì vậy những nỗ lực khai thác lợi ích của mở cửa thị trường quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất hàng hóa, dịch vụ và nhiều khía canh khác là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên rào cản bảo hộ của các quốc gia trong các cuộc đàm phán thương mại đa phương vẫn tồn tại, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Vì vậy Chính phủ các quốc gia có vai trò chủ động trong việc xóa bỏ các rào cản bảo hộ và thúc đẩy tự do hóa thương mại quốc tế.

Trong các nghiên cứu của các nhà kinh tế cổ điển và hiện đại, các nhà kinh tế học đã đề cao vai trò của Chính phủ trong điều tiết nền kinh tế cũng như tác động lớn đến chính sách thương mại quốc tế. Như trong thuyết trọng thương đầu thế kỷ 15, các nhà kinh tế học ủng hộ sự can thiệp sâu của chính phủ vào các hoạt động kinh tếm nhất là trong lĩnh vực ngoại thương như lập hàng rào thuế quan, hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và những chính sách bảo hộ sản xuất trong nước. Với thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so sánh của David Ricardo, vai trò của chính phủ lại được thể hiện ở việc thúc đẩy tự do hóa thương mại, kých thích sự chuyên môn hóa sản phẩm có lợi thế và trao đổi giữa các nước với nhau. Với các lý thuyết hiện đại thì vai trò của chính phủ lại được thể hiện ở mức độ một cách sâu rộng hơn đối với thương mại quốc tế. Với lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter, vai trò của chính phủ được thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn cùng với ngành công nghiệ liên kêt và bổ trợ để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (Ethier và các cộng sự, 1995; Gandolfo, 2014).

Hiện nay, sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các quốc gia vào tổ chức thương mại quốc tế các tổ chức khu vực, cùng nhau ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương,, vai trò của chính phủ còn được thể hiện ở việc nới lỏng hàng rào bảo hộ mậu dịch bao gồm thuế quan và phi thuế quan. Có thể nói đây là xu thế tất yếu của quá trình hội nhập. Đối với các hàng rào thuế quan, các Chính phủ được yêu cầu xóa bỏ dần hàng rào bảo hộ của mình bằng cách giảm thuế nhập khẩu tại các cuộc đàm phán thương mại đa biên. Thuế nhập khẩu như vậy được giảm dần về 0% và được cam kết không tăng lên bởi các quốc gia khi được liệt vào danh mục cam kết. Tuy nhiên, WTO cũng thừa nhận các nước thành viên có thể bảo hộ nền sản xuất nội địa của mình thông qua thuế quan một cách hợp lý và phù hợp nguyên tắc mà WTO đưa ra. Trong các vòng đàm phán thương mại đa phương, các nước đang phát triển hoặc kém phát triển không nhận được nhiều lợi ích và rất ít trong số các quốc gia này tham gia có hiệu quả vào quá trình WTO. Các nước này cũng gặp khó khăn trong quá trình đàm phán giảm thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu của mình bởi vì các hiệp định đa phương chủ yếu giảm thuế cho các sản phẩm xuất khẩu của các nước công nghiệp. Các quốc gia đang phát triển còn gặp hạn chế với quy mô nền kinh tế nhỏ, số lượng mặt hàng xuất khẩu còn ít, dễ bị tổn thương trước những cú sốc từ điều kiện thương mại từ bên ngoài. Để thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại một cách lành mạnh, nhiệm vụ của chính phủ các nước là áp dụng có chọn lọc các mức thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối xử lên các hàng hóa nhập khẩu bị phát hiện có hành vi thương mại không lành mạnh. Việc áp dụng biện pháp thuế này cũng cần tuân thủ chặt chẽ những ràng buộc tại nguyên tắc minh bạch và cạnh tranh lành mạnh mà WTO đưa ra. Ngoài ra WTO cũng cho phép các quốc gia áp dung công cụ hạn ngạch thuế quan, sự kết hợp giữa hạn ngạch và thuế quan, để bảo vệ hợp pháp sản xuất trong nước chống lại cạnh tranh nước ngoài. Có thể nói, thuế quan là một biện pháp bảo hộ phổ biến và minh bạch nhất mà WTO khuyến khích chính phủ các quốc gia áp dụng. Việc bảo hộ này không những không kiềm chế sự phát triển tự do thương mại quốc tế mà còn dễ dàng đi đến đàm phán xóa bỏ dần trong các cuộc đàm phán tương lai.

Bên cạnh hàng rào thuế quan, chính phủ các quốc gia có quyền áp dụng hợp lý các hàng rào phi thuế quan trong quá trình tự do hóa thương mại quốc tế. Hàng rào phi thuế quan là biện pháp gây cản trở cho hàng hóa nhập khẩu mà không đánh thuế, bao gồm hàng rào hành chính và rào cản kỹ thuật. Hàng rào hành chính là các quy định pháp luật có tính chất hành chính nhà nước nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu. Các quy định này bao gồm cấm nhập, cấm xuất, giấy phép, hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc. Cụ thể, cấm nhập hoặc cấm xuất là những quy định thành văn bản tại chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia đối với những hàng hóa nhất định về việc không được phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Những hàng hóa cấm nhập, cấm xuất này thường là những hàng hóa ảnh hưởng trầm trọng đến trật tự an ninh xã hội, quốc phòng, môi trường và sức khỏe con người. Biện pháp này không được áp dụng đối với những hàng hóa thông thường vì nó tạo ra bức tường bảo hộ thị trường nội địa quá lớn và không phù hợp với các nguyên tắc của WTO, gây cản trở tự do thương mại quốc tế. Hạn ngạch là quy định về khối lượng hoặc giá trị tối đa của hàng hóa nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong từng giai đoạn cụ thể. Hạn ngạch là quy định mang tính áp đặt cao của Chính phủ dành cho cho các nhà nhập khẩu/ xuất khẩu hoặc các quốc gia cung cấp hàng hóa đó. Tuy nhiên, trong thực tế, biện pháp hạn ngạch được chứng minh có nhiều nhược điểm gây thất bại thị trường do cản trở quy luật cung cầu tự nhiên. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là thỏa thuận về giá trị hoặc khối lượng tối đa một mặt hàng nào đó giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Biện pháp này là hình thức mở rộng của biện pháp hạn ngạch, thay vì quy định đơn phương thì nó là một hiệp định song phương. Giấy phép nhập khẩu là quy định hành chính yêu cầu nhà nhập khẩu xuất trình đơn xin cấp phép nhập khẩu cho một loại hàng hóa nhất định. Quy định này được yêu cầu với chủ yếu các hàng hóa tính năng đăc biệt, có một phần ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người, an ninh trật tự xã hội, quốc phòng, tuy nhiên chưa được liệt kê vào hàng hóa cấm xuất, nhập khẩu. Tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc là quy định của một quốc gia về tỷ lệ nội địa hóa của một mặt hàng nào đó để đủ điều kiện tiêu thụ tại thị trường trong nước.

Rào cản kỹ thuật lại là những quy chuẩn kỹ thuật đối với các loại hàng hóa do một quốc gia quy định. Những quy chuẩn kĩ thuật này được chính phủ thiết lập dựa trên đặc điểm sử dụng và tiêu thụ của từng hàng hóa để hạn chế hợp lý lượng hàng hóa nhập khẩu vào thị trường nội địa. Đây được coi là hai hình thức chính thống của hàng rào phi thuế quan và được sử dụng phổ biến trong nền thương mại quốc tế. Chính phủ các quốc gia cũng được yêu cầu xóa bỏ các rào cản phi thuế quan mang tính chất hành chính như hạn ngạch, giấy phép, hạn chế xuất khẩu tự nguyện và tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc để tiêu thụ trong nước do tính cản trở tự do thương mại của chúng. WTO cũng hạn chế tối đa việc sử dụng biện pháp cấm nhập/cấm xuất của các quốc gia trừ các trường hợp mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của hàng hóa lên an ninh trật tự xã hội và sức khỏe con người. Các rào cản kỹ thuật như Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) và Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) cũng được khuyến khích nới lỏng để đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật của một quốc gia không tạp ra rào cản đối với tự do hóa thương mại giữa các quốc gia, đồng thời WTO cũng yêu cầu các quốc gia tuân thủ các nguyên tắc chung khi áp dụng các biện pháp này như đưa ra các bằng chứng khoa học của tiêu chuẩn kỹ thuật, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, không phân biệt đối xử…

Như vậy vai trò của Chính phủ trong việc xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan là rất rõ ràng trong quá trình hội nhập do sự ràng buộc của các cam kết thương mại ở các tổ chức thương mại, các hiệp định thương mại song phương, đa phương đã ký kết giữa các quốc gia nhằm thúc đẩy tự do thương mại toàn cầu (Gandolfo, 2014). Các quốc gia đều nhận được những lợi ích không nhỏ từ tự do hóa thương mại so với những khó khăn mà nó gây ra, do vậy chính phủ các quốc gia luôn nỗ lực hoàn thiện quá trình cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên đây là một quá trình dài và gây nhiều khó khăn cho các quốc gia do điều kiện kinh tế, lịch sử hình thành của mỗi quốc gia là khác nhau và không phải tất cả các quốc gia đều đáp ứng việc xóa bỏ các rào cản bảo hộ ngay lập tức. Minh chứng cụ thế cho sự khó khăn mà các quốc gia gặp phải là sự thất bại của các cuộc đàm phán thương mại để tiếp tục cắt giảm thuế trong lĩnh vực nông nghiệp để đẩy mạnh tự do hóa thương mại tại Hiệp đinh nông nghiệp của GATT 1994.

Vì vậy nhiệm vụ chính phủ các quốc gia trước khi tiến hành xóa bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan là điều chính chính sách bảo hộ của quốc gia mình. Không thể phủ nhận những lợi ích mà tự do thương mại mang lại cho các quốc gia nhưng các quốc gia không thể xóa bỏ hoàn toàn các rào cản bảo hộ của mình. Sự tự do thương mại có thể kéo theo sự canh tranh gay gắt giữa sản phẩm nội địa và hàng hóa ngoại nhập, xu hướng các quốc gia không muốn đánh mất thị trường trong nước vào tay các doanh nghiệp nước ngoài nên việc điều chỉnh chính sách bảo hộ trong nước là hết sức cần thiết. Việc điều chỉnh này cần tuân thủ theo những cam kết trong tổ chức thương mại quốc tế WTO để hoàn thiện các công cụ đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh. Sau khi đạt được các thỏa thuận về tự do hóa thương mại tại các tổ chức thương mại quốc tế, chính phủ các quốc gia đều tiến hành hoàn thiện chính sách thương mại của riêng mình để tận dụng tối đa các công cụ mà các thỏa thuận này cho phép sử dụng để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ để có thể đáp ứng các luật lệ và quy định mà WTO đưa ra. Ngoài ra, chính phủ cũng cần thành lập các cơ quan, cấp ngành hoạt động chuyên nghiệp trong hoạt động thương mại quốc tế và luật thương mại quốc tế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tiến hành chứng minh các hoạt động gian lận thương mại, hành vi vi phạm pháp luật thương mại quốc tế như bán phá giá, trợ cấp, phân biệt đối xử… để áp mức thuế phạt khi cần (Gandolfo, 2014).

Ngoài ra, trong chủ nghĩa bảo hộ mới, chính phủ các quốc gia cũng điều chỉnh chính sách bảo hộ của mình theo hướng lợi dụng thảo thuận mà WTO cho phép để bảo hộ (Gandolfo, 2014). Các thỏa thuận đạt được sau các cuộc đàm phán thương mại được một số quốc gia lợi dụng đê bảo hộ sản xuất trong nước. Các quốc gia này sử dụng các hàng rào kỹ thuật mới lạ, khó đáp ứng để tạo rào cản xâm nhập đối với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia khác. Các tiêu chuẩn kĩ thuật này chủ yếu là các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường trong nước sẽ được kiểm tra và đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn bởi quốc gia nhập khẩu. Biện pháp bảo hộ này thường được áp dụng tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản và EU, do đặc điểm đây là những thị trường khó tính. Ngoài ra, một số quốc gia cũng lạm dụng việc các nước đang phát triển với nền kinh tế chuyển đổi chứ chính thức được công nhận là nền kinh tế thị trường để xác định giá bán tại thị trường thứ ba, thay vì thị trường nội địa nước xuất khẩu. Từ đó, giá cả xuất khẩu được phản ánh không đúng thực tế làm cho các nước xuất khẩu phải chịu quy lỗi bán phá giá, lỗi trợ cấp và bị áp thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Trợ cấp xuất khẩu qua tín dụng cũng là một biện pháp mà các quốc gia sử dụng để lợi dụng luật cấm trợ cấp xuất khẩu của WTO. Do phương pháp hỗ trợ tín dụng không quy định điều kiện cho các sản phẩm xuất khẩu.

Chính phủ các quốc gia cũng cần có cơ chế khuyến khích, thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới bùng nổ mạnh mẽ đang có tác động to lớn lên sự phát triển thương mại của các quốc gia. Đây là cơ hội thuận lợi để các quốc gia rút ngắn sự lạc hậu về công nghệ bằng cách nhập khẩu các trang thiết bị tiên tiến phục vụ sản xuất trong nước. Sản phẩm sản xuất trong nước thông qua đó có sức cạnh tranh hơn với các sản phẩm ngoại nhập, tăng hiệu quả sản xuất hàng hóa. Chính phủ cũng cần có những chính sách ưu đãi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút họ, từ đó tăng nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế trong nước. Nền kinh tế trong nước sẽ có môi trường cạnh tranh cao để thúc đẩy sản xuất phát triển.

Kết luận: Xây dựng và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế là vấn đề lớn đặt ra cho mỗi quốc gia trước tình hình hội nhập ngày càng sâu sắc vào nền kinh tế thế giới hiện nay. Chương này đã tập trung đưa ra những khái niệm căn bản và tổng quan nhất về chính sách thương mại quốc tế. Từ đó, tác giả đã nêu lên thực trạng vai trò của chính phủ trong tự do hóa thương mại. Các vấn đề được làm rõ như việc cắt giảm thuế quan và phi thuế quan đang dần được xử lý như thế nào, việc hoàn thiện chính sách bảo hộ dựa trên quy định pháp luật và thỏa thuận tại WTO ra sao, hay việc khuyến khích nhà sản xuất trong nước phát triển sản xuất và tăng sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, việc xây dựng các cơ quan chức năng trợ giúp về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp nắm vững các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe cũng như pháp luật của nước đối tác. Trước sự phức tạp trong môi trường thương mại quốc tế, các quốc gia cần nghiên cứu và chuẩn bị sẵn sàng tâm thế đáp trả kịp thời các hành vi không thực hiện đúng cam kết WTO hay các cam kêt thương mại đã ký kết tại các Hiệp định khu vực của các nước đối tác một cách phù hợp với thông lệ quốc tế và chính sách thương mại của quốc gia chủ nhà. Với xu hướng thương mại toàn cầu, chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia sẽ ngày càng được hoàn thiện theo hướng nới lỏng các hàng rào bảo hộ và cạnh tranh lành mạnh trên trường quốc tế.

Nguồn: Nguyễn Hoàng Quy và cộng sự (2018), Chính sách thương mại quốc tế: Lý luận và thực tiễn Việt Nam hội nhập toàn cầu, NXB Thống kê.