Khi thu nhập hiện tại vượt quá nhu cầu tiêu dùng, người ta có xu hướng tiết kiệm khoản dư thừa. Khoản tiết kiệm đó có thể được cất giữ trong hiện tại và sử dựng để chi tiêu trong tương lai khi nhu cầu tiêu dùng vượt quá thu nhập. Bằng cách này, chúng ta vẫn chỉ có một khoản tiền đúng với khoản tiền tiết kiệm ban đầu.
Ở một khía cạnh khác, những người thừa tiền có thể từ bỏ quyền sờ hữu khoản tiết kiệm này ở hiện tại để nhận được một khoản tiền lớn hơn nhàm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tương lai. Sự đánh đổi giữa nhu cầu tiêu dùng hiện tại và kỳ vọng tiêu dùng cao hơn trong tương lai là lý do dẫn đến tiết kiệm. Như vậy, trong trường hợp này, chúng ta đã từ bỏ quyền sở hữu đối với khoản tiết kiệm ở hiện tại (trì hoãn tiêu dùng hiện tại) để mong nhận được một khoản tiền lớn hơn trong tương lai. Trái lại, những ai tiêu dùng nhiều hơn thu nhập hiện tại (họ phải đi mượn tiền để chi tiêu) sẽ phải trả lại một khoản tiền lớn hơn trong tương lai so với lúc họ mượn. Cái bạn làm với những khoản tiết kiệm này để gia tăng giá trị của nó theo thời gian chỉnh là sự đầu tư.
Sự hài lòng để thanh toán cho số chênh lệch chúng ta đã mượn hoặc mong muốn nhận được một khoản thặng dư trên số tiền tiết kiệm ban đầu được biết đến như giá trị thời gian thuần của tiền tệ (pure time value of money). Tỷ lệ giữa nhu cầu tiêu dùng tương lai và tiêu dùng hiện tại chính là lãi suất thuần (pure rate of interest). Lãi suất này được hình thành trên thị trường vốn trên cơ sở so sánh giữa cung của thu nhập thặng dư (tiết kiệm) được đầu tư và nhu cầu tiêu dùng vượt mức (khoản vay mượn) tại một thời điểm nhất định. Chẳng hạn, nếu bạn có thể lấy 100 đồng thu nhập sẵn có hôm nay đổi 108 đồng thu nhập sau một năm thì tỷ lệ trao đổi thuần (pure rate of exchange) đối với khoản đầu tư phi rủi ro này là (108/100)-1) = 8%. Như vậy, những người từ bỏ 100 đồng hôm nay mong đợi sẽ chi tiêu 108 đồng vào hàng hóa và dịch vụ trong tương lai với giả định rằng chỉ sổ giá tiêu dùng trong nền kinh tế là không đổi.
Nếu nhà đầu tư dự báo về một sự thay đổi giá, họ sẽ yêu cầu một tỷ lệ thu nhập cao hơn để bù đắp cho sự biến động giá trị tiền tệ theo thời gian. Chẳng hạn, nếu nhà đầu tư dự báo rằng giá cả tăng (sẽ có lạm phát) ờ mức 2% trong suốt thời gian đầu tư, họ sẽ tăng tỷ suất lợi tức kỳ vọng thêm 2%. Trong ví dụ ở trên, nhà đầu tư yêu cầu 110 đồng cho việc tiêu dùng trong tương lai để trì hoãn 100 đồng tiêu dùng hiện tại trong suốt thời kỳ lạm phát (tỷ suất lợi tức phi rủi ro được yêu cầu là 10% thay vì 8%).
Hơn nữa, nếu thu nhập trong tương lai từ việc đầu tư là không chắc chăn, nhà đầu tư sẽ yêu cầu tỷ suất lợi tức bằng giá trị thuần theo thời gian của vốn cộng với tỷ lệ lạm phát. Sự không chắc chắn của dòng thu nhập trong tương lai từ đầu tư được xem là rủi ro đầu tư, Phần tỷ suất lợi tức tăng thêm được cộng vào tỷ suất lợi tức danh nghĩa (tức tỷ suất lợi tức của tài sản phi rủi ro) gọi là phần bù rủi ro (Risk Premium). Trong ví dụ trên, nhà đầu tư yêu cầu nhiều hơn 108 đồng sau một năm để bù lại phần không chắc chắn của dòng thu nhập. Giả sử, nếu số tiền yêu cầu là 112 đồng, thì 4 đồng (hay 4%) tăng thêm được xem là phần bù rủi ro.
Từ sự thảo luận ở trên, chúng ta có thể khái quát một định nghĩa tổng quát về đầu tư. Cụ thể, đầu tư là sự cam kết bỏ vốn trong hiện tại đê nhận được những khoản thu nhập lớn hơn trong tương lai nhằm bù đẳp cho nhà đầu tư về (I) thời gian vốn được bỏ ra, (2) tỳ lệ lạm phát dự đoán trong tương lai và (3) sự không chắc chắn của dòng thu nhập trong tương lai.
Nhà đầu tư có thể là cá nhân, chính phù, quỹ hưu trí, hay một tổ chức. Theo đó, định nghĩa trên bao gồm tất cả các hoạt động đầu tư, bao gồm cả đầu tư vào nhà xưởng và trang thiết bị của một tổ chức cũng như đầu tư cá nhân vào cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa hay bất động sản. Trong tất cả các trường họp, nhà đầu tư đều đổi một khoản tiền hôm nay lấy dòng thu nhập trong tương lai lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra lúc ban đầu. Cuốn sách này tập trung vào các hoạt động của nhà đầu tư cá nhân vào các tài sản tài chính.
31 Th12 2020
31 Th12 2020
31 Th12 2020
31 Th12 2020
31 Th12 2020
30 Th12 2020