1. Các nguyên tắc cơ bản khi xác định dòng tiền của dự án
– Đánh giá dự án phải dựa vào dòng tiền chứ không dựa vào lợi nhuận.
- Đánh giá dự án phải dựa vào dòng tiền tăng thêm
- Đánh giá dự án phải dựa vào dòng tiền sau thuế
- Không được tính chi phí chìm vào dòng tiền tăng thêm
- Phải tính chi phí cơ hôi vào dòng tiền tăng thêm
- Phải tính đến yếu tố lạm phát khi xem xét dòng tiền.
2. Xác định dòng tiền của dự án đầu tư
Đau tư dài hạn cũng có nghĩa là bỏ tiền ra ở hiện tại để hy vọng trong tương lai sẽ thu được các khoản thu nhập nhiều hơn. Do vây, trên góc đô tài chính, đau tư là môt quá trình phát sinh các dòng tiền chi ra và dòng tiền thu vào. Môt dự án đau tư cũng có thể được mô tả và định lượng được dưới dạng các dòng tiền, chẳng hạn môt dự án đau tư A bỏ vốn đau tư ngay môt lan là CF0 và dự kiến thu được các khoản tiền ở các năm trong tương lai CFi, CF2, CF3 .. .CFn-i, CFn. Dự án đó có thể được mô tả dưới dạng sau:
- Dòng tiền chi ra (hay dòng tiền ra) là dòng tiền xuất ra để thực hiện đau tư có thể gọi là dòng tiền “âm”.
- Dòng tiền thu vào (hay dòng tiền vào) là dòng tiền nhập vào từ thu nhập do đau tư đưa lại có thể gọi là dòng tiền “dương” Số lượng và thời điểm phát sinh các khoản chi, thu tiền trong quá trình thực hiện đau tư là những thông số hết sức quan trọng liên quan đến việc đánh giá hiệu quả kinh tế và lựa chọn việc đau tư. Việc xác định dòng tiền ra và dòng tiền vào của đau tư là vấn đề khó khăn và phức tạp, nhất là việc xác định dòng tiền vào. Đô chính xác của việc xác định dòng tiền ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định đau tư.
- Dòng tiền thuần vận hành được xác định là số chênh lệch giữa lượng tiền thu được (dòng tiền vào) và lượng tiền chi ra (dòng tiền ra) phát sinh từ hoạt đông thường xuyên trong kỳ khi dự án được đưa vào vận hành (đưa vào hoạt đông kinh doanh). Đối với dự án đau tư trong kinh doanh tạo ra doanh thu tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ thì thu nhập từ hoạt đông hàng năm hay dòng tiền thuan vận hành của dự án có thể được xác định bằng doanh thu thuan trừ đi chi phí hoạt đông thường xuyên ( không kể khấu hao TSCĐ) và thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều đó cũng có, nghĩa là thu nhập từ hoạt đông hay dòng tiền thuan hàng năm của dự án có thể xác định bằng công thức sau:
❖ Ảnh hưởng của khẩu hao đến dòng tiền của dự án đầu tư
Cần thấy rằng, mặc dù khấu hao tài sản cố định được tính là chi phí kinh doanh trong năm nhưng nó không là khoản chi tiêu bằng tiền trong năm đó. Mặt khác, trên góc đô đầu tư, khấu hao là phương pháp thu hồi dần vốn đầu tư.
Chính vì thế, số tiền khấu hao được coi là môt khoản thu nhập của dự án đầu tư.
+ Giá trị thu hồi từ thanh lý tài TSCĐ khi kết thúc dự án đầu tư (nếu có).
+ Thu hồi số vốn lưu đông đã ứng ra: như trên đã nêu, mặc dù số vốn lưu đông chu chuyển nhanh, nhưng quá trình kinh doanh diễn ra liên tục. Vì thế, thường xuyên có môt lượng vốn lưu đông nằm trong quá trình kinh doanh. Tương ứng với quy mô kinh doanh và trong điều kiện mua sắm, dự trữ vật tư và tiêu thụ sản phẩm nhất định phải ứng ra môt lượng vốn đầu tư vào tài sản lưu đông thường xuyên. Số vốn này có thể được thu hồi môt phần trong quá trình vận hành của dự án môt khi quy mô của dự án thu hẹp lại và nó được thu hồi lại toàn bô ở năm cuối lúc thanh lý dự án.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy, chi phí và thu nhập của môt dự án đầu tư tạo thành dòng tiền ra và dòng tiền vào của dự án, sự chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra hợp thành dòng tiền thuần của dự án đầu tư và có thể xác định bằng công thức sau:
Để thuận tiện cho việc tính toán thông thường người ta sử dụng môt số giả định sau:
– Thời điểm bỏ khoản vốn đầu tư đầu tiên được xác định là thời điểm 0.
– Dòng tiền vào hoặc dòng tiền ra của môt dự án trong môt kỳ được xác định ở thời điểm cuối của kỳ đó.
24 Th12 2020
23 Th12 2020
23 Th12 2020
23 Th12 2020
23 Th12 2020
23 Th12 2020