Vai trò, yêu cầu và nhiệm vụ của hạch toán kế toán

1. Vai trò hạch toán kế toán trong quản lý kinh tế

1.1. Khái niệm và phân loại hạch toán.

Lịch sử tiến hoá của xã hội loài người đã khẳng định: sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thời cổ sơ, con người đã nhận thấy rằng muốn duy trì và phát triển thì phải lao động sản xuất để tạo ra những vật dụng, thức ăn, đồ mặc. Muốn sản xuất ra những thứ ấy phải làm như thế nào, phải cần những tư liệu sản xuất gì, phải hao phí bao nhiêu lao động, kết quả sản xuất được bao nhiêu, sẽ phân phối như thế nào v.v… Nghĩa là người ta đã quan tâm đến chi phí “đầu vào” và kết quả đầu ra của hoạt động sản xuất. Sản xuất là hoạt động tự giác, có ý thức, có mục đích của con người nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội tồn tại và phát triển. Hoạt động sản xuất được diễn ra liên tục, lặp lại và không ngừng đổi mới từ đó hình thành nên quá trình tái sản xuất xã hội. Quá trình tái sản xuất từ đơn giản đến mở rộng, nó phát triển cùng với sự tiến hoá của xã hội loài người và cũng từ sự phát triển của nền sản xuất xã hội là những mốc đánh dấu các thời kỳ văn minh của loài người.

Như vậy, để tiến hành sản xuất, sản xuất có hiệu quả đặt ra nhu cầu tất yếu phải thực hiện chức năng quản lý sản xuất. Để quản lý được các hoạt động kinh tế – hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi thực hiện việc quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động đó.

  • Quan sát là hoạt động đầu tiên của quá trình quản lý nhằm định hướng, phản ánh, giám đốc quá trình tái sản xuất.
  • Đo lường các hao phí trong sản xuất và của cải vật chất đã sản xuất ra là việc biểu hiện những đối tượng đó bằng các đơn vị đo thích hợp.
  • Tính toán là việc sử dụng các phương pháp tính toán, tổng hợp, phân tích để tính ra những chỉ tiêu kinh tế cần thiết. Nhờ đó mà biết được mức độ thực hiện và hiệu quả của mỗi quá trình kinh tế cũng như tiến bộ hoạt động sản xuất của xã hội.
  • Ghi chép là quá trình thu nhận, xử lý, ghi lại tình hình và kết quả các hoạt động kinh tế đã thực hiện theo trình tự và phương pháp nhất định. Từ đó mà thực hiện chức năng phản ánh và giám đốc các quá trình kinh tế trong từng thời gian, từng địa điểm phát sinh cũng như suốt một thời kỳ nào đó.

Các hoạt động quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động kinh tế của con người nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám đốc các hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội gọi là hạch toán. Hạch toán là nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội và là một trong các công cụ quan trọng để quản lý kinh tế. Có thể nói hạch toán được hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất xã hội.

Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau và đều cần phải tiến hành hạch toán. Xã hội loài người càng phát triển, con người càng quan tâm đến hoạt động sản xuất tức là càng quan tâm đến thời gian lao động bỏ ra và kết quả sản xuất đạt được. Các-Mác đã viết: “Trong tất cả các hình thái kinh tế xã hội, người ta đều phải quan tâm đến thời gian cần dùng để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, nhưng ở mức độ quan tâm có khác nhau tuỳ theo trình độ của nền văn minh”[1].

Mọi hình thái kinh tế xã hội đều cần phải tiến hành hạch toán. Đồng thời cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội thì hạch toán cũng không ngừng hoàn thiện và phát triển về nội dung, phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Mục đích của hạch toán phụ thuộc vào mục đích của nền sản xuất xã hội.

Để phản ánh, tổ chức chỉ đạo quản lý một cách có hiệu quả và đánh giá toàn diện các quá trình kinh tế – sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác về từng quá trình hoạt động, về tình hình và kết quả hoạt động ở từng thời điểm cũng như cả quá trình hoạt động, đò hỏi phải sử dụng các loại hạch toán khác nhau. Căn cứ vào tính chất của số liệu hạch toán và phương pháp thu nhận phản ánh các số liệu đó, người ta phân chia hạch toán thành ba loại khác nhau: hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê và hạch toán kế toán.

Hạch toán nghiệp vụ (còn gọi là hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật) là sự quan sát, phản ánh và kiểm tra trực tiếp từng nghiệp vụ kinh tế, từng quá trình kinh tế kỹ thuật cụ thể để cung cấp thông tin, thực hiện sự chỉ đạo thường xuyên và kịp thời các nghiệp vụ, các quá trình kinh tế đó. Hạch toán nghiệp vụ cung cấp tình hình và số liệu về từng nghiệp vụ kinh tế (mua, bán…) từng quá trình kinh tế kỹ thuật (quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh).

Số liệu thông tin do hạch toán nghiệp vụ cung cấp thường riêng biệt, rời rạc, ít sử dụng những chỉ tiêu tổng hợp. Phương pháp quan sát thu thập phản ánh thông tin thường đơn giản, trực tiếp. Hạch toán nghiệp vụ không chuyên dùng một loại thước đo nào. Tuỳ thuộc vào tính chất của từng nghiệp vụ kinh tế và yêu cầu quản lý mà sử dụng những thước đo phù hợp (thước đo hiện vật, thước đo lao động, thước đo tiền tệ).

Hạch toán thống kê (thường gọi tắt là thống kê) là môn khoa học nghiên cứu mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng kinh tế xã hội số lớn trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể nhằm rút ra bản chất và tính quy luật trong sự phát triển của các hiện tượng đó. Do tính chất đối tượng và phương pháp nghiên cứu của hạch toán thống kê cho nên số liệu phản ánh không liên tục, thường xuyên mà chỉ có tính hệ thống. Số liệu do hạch toán thống kê cung cấp cho việc phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tài chính, từ đó rút ra quy luật phát triển kinh tế để đề ra phương hướng, biện pháp lãnh đạo, quản lý kinh tế và làm cơ sở để lập các kế hoạch, các dự án kỳ sau được đúng đắn. Hạch toán thống kê có một hệ thống các phương pháp khoa học để nghiên cứu, phản ánh như phương pháp điều tra, phương pháp phân tổ, phương pháp chỉ số, phương pháp động thái biến động… Tuỳ theo tính chất và yêu cầu cung cấp thông tin mà hạch toán thống kê sử dụng thước đo thích hợp.

Hạch toán kế toán (thường gọi là kế toán) là môn khoa học thu nhận xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản (thông tin về tình hình các tài sản, các hoạt động kinh tế tài chính và kết quả của các hoạt động đó) trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, tổ chức sự nghiệp và cơ quan, nhằm kiểm tra giám sát toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính của các đơn vị đó. Hạch toán kế toán có đặc điểm:

+ Hạch toán kế toán phản ánh và giám đốc một cách thường xuyên, liên tục, toàn diện và có hệ thống tất cả các loại tài sản và tình hình vận động của những tài sản đó trong các hoạt động kinh tế. Nhờ đó mà hạch toán kế toán thực hiện được chức năng giám đốc liên tục cả trước, trong và sau các quá trình kinh tế và việc sử dụng tài sản.

+ Hạch toán kế toán có hệ thống các phương pháp khoa học riêng như phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp – cân đối kế toán. Trong đó phương pháp chứng từ kế toán là thủ tục hạch toán đầu tiên bắt buộc phải có đối với mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Chính nhờ đó mà số liệu do hạch toán kế toán phản ánh đảm bảo được tính trung thực, chính xác và có cơ sở (bằng bản chứng từ) pháp lý khẳng định chắc chắn.

+ Hạch toán kế toán sử dụng cả ba loại thước đo. Các đối tượng phản ánh trong hạch toán kế toán có thể sử dụng thước đo hiện vật, thước đo lao động, nhưng tính toán tổng hợp vẫn phải phản ánh bằng thước đo tiền tệ, thước đo tiền tệ được coi là thước đo chủ yếu. Nhờ đó mà hạch toán kế toán cung cấp được các chỉ tiêu tổng hợp theo yêu cầu quản lý và cho việc kiểm tra giám sát tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế tài chính ở từng đơn vị.

Hệ thống hạch toán kế toán có thể chia thành nhiều loại khác nhau. Tuỳ theo cách thức ghi chép, thu nhận các thông tin, tính chất, phạm vi và mục đích thông tin, hạch toán kế toán được chia thành các loại sau:

  • Theo cách ghi chép thu nhận thông tin: Hạch toán kế toán chia thành:
    • Kế toán đơn: Là loại hạch toán kế toán thực hiện việc ghi chép thu nhận các thông tin về nghiệp vụ kinh tế taì chính một cách độc lập, riêng biệt.
    • Kế toán kép: Là loại hạch toán kế toán thực hiện việc ghi chép, thu nhận các thông tin về các nghiệp vụ kinh tế tài chính theo đúng nội dung và sự vận động biện chứng giữa các đối tượng kế toán.
  • Theo mức độ, tính chất thông tin: Hạch toán kế toán chia thành:
    • Kế toán tổng hợp: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin kế toán được ghi chép thu nhận cung cấp ở dạng tổng quát theo những chỉ tiêu tổng hợp bằng thước đo tiền tệ.
    • Kế toán chi tiết: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin kế toán thu nhận, cung cấp ở dạng chi tiết, cụ thể về một chỉ tiêu tổng hợp do kế toán tổng hợp thực hiện. Các chỉ tiêu chi tiết được biểu hiện có thể bằng thước đo tiền tệ, hiện vật, hoặc thước đo lao động.
  • Theo phạm vi thông tin kế toán cung cấp: Hạch toán kế toán chia thành:
    • Kế toán tài chính: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin kế toán thu nhận, xử lý và cung cấp với mục đích phục vụ chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp sử dụng. Kế toán tài chính sử dụng thước đo tiền tệ là chủ yếu.
    • Kế toán quản trị: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin kế toán thu nhận, xử lý và cung cấp với mục đích phục vụ chủ yếu cho các nhà quản trị doanh nghiệp sử dụng nhằm quản lý, nghiên cứu đề ra các quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kế toán quản trị sử dụng cả ba loại thước đo tiền tệ, hiện vật và lao động.
  • Theo đặc điểm và mục đích hoạt động của đơn vị kế toán: Hạch toán kế toán chia thành:
    • Kế toán công: Là loại hạch toán kế toán được tiến hành ở những đơn vị hoạt động không có tính chất kinh doanh, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
    • Kế toán doanh nghiệp: Là loại hạch toán kế toán được tiến hành ở những đơn vị tổ chức kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu chính trước hết là kinh doanh phải đạt được mục đích có lợi nhuận.

Ba loại hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê, hạch toán kế toán có nội dung nghiên cứu và phương pháp riêng nhưng đều được hình thành từ một nguồn gốc là hạch toán và có liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ thể hiện là:

  • Cả ba loại hạch toán đều thu nhận xử lý và cung cấp thông tin về tài sản về các hoạt động kinh tế tài chính.
  • Cả ba loại hạch toán đều là công cụ quan trọng để quản lý kinh tế, đều phục vụ cho sự lãnh đạo quản lý của giám đốc đơn vị và cấp trên.
  • Các loại hạch toán này có quan hệ cung cấp số liệu cho nhau trên cơ sở số liệu từ việc tổ chức hạch toán ban đầu thống nhất.

Tuỳ theo đối tượng (nội dung) và phương pháp thực hiện, mỗi loại hạch toán đều phát huy tác dụng trên những mặt khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh nhưng đều phục vụ cho việc quản lý kinh tế. Trong đó hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý, điều hành kiểm soát các hoạt động kinh tế của Nhà nước cũng như ở từng doanh nghiệp. Hạch toán kế toán là nhu cầu khách quan và tồn tại trong tất cả các hình thái kinh tế – xã hội cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Hạch toán kế toán cũng không ngừng phát triển, hoàn thiện về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức.

1.2. Vai trò của hạch toán kế toán trong quản lý:

Trong ba loại hạch toán thì hạch toán kế toán có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý kinh tế tài chính ở mỗi doanh nghiệp, trong từng ngành kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Hạch toán kế toán là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tình hình tài sản và sự vận động của những tài sản trong các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị. Hạch toán kế toán hình thành và phát triển gắn liền với sự phát sinh phát triển của nền sản xuất xã hội. Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển, hạch toán kế toán càng trở nên cần thiết, quan trọng và trở thành công cụ quản lý không thể thiếu được trong hệ thống các công cụ quản lý kinh tế tài chính. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua một hệ thống thông tin trung thực, chính xác đầy đủ, toàn diện, kịp thời về các hoạt động kinh tế tài chính ở doanh nghiệp. Về vai trò của kế toán, Mác đã viết: “Kế toán như là phương tiện (công cụ) kiểm soát và tổng kết quá trình sản xuất trên ý niệm, càng trở nên cần thiết chừng nào mà quá trình càng có một quy mô xã hội, càng mất dần tính chất thuần tuý cá thể. Cho nên kế toán càng cần thiết đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hơn là đối với sản xuất phân tán của thợ thủ công và nông dân, lại càng cần thiết đối với nền sản xuất công cộng hơn là đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”.

Để tổ chức và quản lý các hoạt động kinh tế ở các doanh nghiệp, các ngành kinh tế phải có định hướng chiến lược, kế hoạch kinh doanh thật chính xác, toàn diện, mặt khác phải tổ chức kiểm tra giám đốc quá trình thực hiện các định hướng kế hoạch với chi phí thấp nhất. Muốn vậy phải có những thông tin một cách đầy đủ, chính xác toàn diện có hệ thống và kịp thời các mặt hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp ở từng thời điểm cũng như trong cả quá trình. Có nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhung trong đó thông tin đáng tin cậy, chắc chắn nhất, mang tính pháp lý cao chỉ có được thông qua hạch toán kế toán. Hạch toán kế toán có hệ thống phương pháp khoa học nên việc ghi chép, phản ánh, tổng hợp hệ thống hoá các hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp một cách đầy đủ, toàn diện, liên tục, khách quan, kịp thời.

Nhờ đó hạch toán kế toán cung cấp những thông tin cho nhà quản lý doanh nghiệp cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cho các nhà kinh tế và những người liên quan đến hoạt động và lợi ích của doanh nghiệp nắm được tình hình tài sản, chi phí, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá hoạt động kinh tế tài chính, mỗi doanh nghiệp còn phải định kỳ hoặc bất thường tổ chức phân tích hoạt động kinh tế dựa trên số liệu của hạch toán kế toán. Thông qua việc phân tích kinh tế trên cơ sở số liệu kế toán cung cấp giúp cho người quản lý đánh giá chính xác mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế tài chính về cả số lượng và chất lượng, rút ra những mặt ưu điểm và thiếu sót trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của đơn vị, xác định nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục. Việc tổ chức phân tích hoạt động kinh tế tốt còn là tiền đề, là cơ sở để xây dụng kế hoạch cho kỳ sau, giúp cho các cơ quan quản lý có cơ sở hoạch định các chính sấch, đường lối phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Với tác dụng đó, người ta coi kế toán là quy tắc đầu tiên của quản lý, không có kế toán thì không thể quản lý được kinh tế. Kế toán không phải là một công việc giấy tở, một loại nghiệp vụ đơn giản mà là một hoạt động quản lý khoa học không thể thiếu trong quản lý kinh tế ở mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

2. Yêu cầu và nhiệm vụ của hạch toán kế toán

Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế tài chính, nó cung cấp hệ thống thông tin cho chỉ đạo quản lý các hoạt động kinh tế cũng như để đề ra các quyết định kinh tế. Để phát huy vai trò quan trọng, đặc biệt cần thiết của kế toán đối với hoạt động kinh tế tài chính doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hạch toán kế toán cần đảm bảo đầy đủ các yêu cầu sau:

– Tài liệu kế toán cung cấp phải đảm bảo tính thống nhất. Kế toán là một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa học về quản lý kinh tế. Công tác kế toán được tổ chức theo một hệ thống thống nhất từ trung ương đến từng đơn vị kinh tế cơ sở. Do đó tổ chức công tác kế toán ở mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà Nước. Các số liệu kế toán phải nhất trí với chỉ tiêu kế hoạch kinh tế tài chính của doanh nghiệp (về nội dung và phương pháp tính toán). Đảm bảo yêu cầu này thì công tác tổng hợp số liệu kế toán cung cấp của toàn bộ nên kinh tế, của mỗi ngành và mỗi doanh nghiệp được dễ dàng. Việc so sánh đánh giá giữa các đơn vị trong cùng ngành, cùng lĩnh vực. Từ đó giúp cho các nhf quản lý, các cơ quan kinh tế… có thể nhìn nhận, đánh giá được chính xác, đầy đủ, khách quan toàn diện tình hình và kết quả hoạt động kinh tế, cũng như xu hương phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngành kinh tế.

– Tài liệu kế toán cung cấp phải đảm bảo đầy đủ, chính xác, trung thực, khách quan các hoạt động, tình hình quản lý kinh tế tài chính trong đơn vị. Kế toán cung cấp những thông tin chính xác, trung thực khách quan đúng với bản chất của hoạt động kinh tế đó, giúp cho các cơ quan quản lý Nhà Nước, nhà quản lý doanh nghiệp nhận thực đúng thực trạng hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó có đánh giá kết luận thật đúng đắn tình hình và kết quả kinh tế thời gian qua và giúp các nhà quản lý doanh nghiệp đề ra những chủ trương, quyết định sát thực để khải thác tối đa những hoạt động có hiệu quả kinh tế cao, hạn chế hoặc chuyển hướng kinh doanh những hoạt động kém hiệu quả hoặc không phù hợp với chức năng nhiệm vụ và điều kiện của doanh nghiệp.

– Tài liệu kế toán cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời. Kế toán là “ngôn ngữ” của kinh doanh. Trong điều kiện nền sản xuất xã hội phát triển ở trình độ cao, mỗi quốc gia có quan hệ kinh tế rất đa dạng rộng khắp với nhiều nước trên thế giới. Để phát triển kinh tế trong nước, mở rộng kinh tế đối ngoại, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, người quản lý cần có những thông tin nhanh về tình hình và kết quả các hoạt kinh tế, tình hình tài chính ở từng thời điểm cũng như cả một thời kỳ. Thông tin của kế toán được cung cấp một cách kịp thời sẽ giúp cho các nhà quản lý có những quyết định thích hợp, đúng đắn với thực tế và tương lai phát triển của đơn vị.

– Tài liệu kế toán cung cấp phải rõ ràng, dễ hiểu. Công tác kế toán mang tính ể về một chỉ tiêu tquản lý kinh tế tài chính của Nhà nước là thể chế hoá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng trong tổ chức, quản lý, xây dựng và phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cho cả hệ thống kinh tế quốc dân hoạt động thống nhất đúng định hướng phát triển trong phạm vi khuôn khổ của các chính sách chế độ đã định. Nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất, do đó yêu cầu các đơn vị kinh tế cơ sở phải thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước đã ban hành. Hạch toán kế toán thông qua việc ghi chép phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính và nhập xuất vật tư hàng hoá, về thu chi, thanh toán…. mà đồng thời thực hiện việc kiểm tra nội dung kinh tế của nghiệp vụ kinh tế đó có đúng chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước không; Kịp thời phát hiện và ngăn chặn các sai phạm trong quản lý kinh tế tài chính ở doanh nghiệp. Mặt khác thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện đầy đủ triệt để các yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

  • Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc phân tích hoạt động kinh tế tài chính và khai thác khả năng tiềm tàng của xí nghiệp.

Hạch toán không chỉ thu nhận, xử lý các tài sản của doanh nghiệp, về các hoạt động kinh tế tài chính và thực hiện kiểm tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, kiểm tra việc sử dụng các tài sản, thực hiện các hoạt động kinh tế tài chính, các chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính trong doanh nghiệp mà còn phải thực hiện chức năng cung cấp thông tin các tài liệu, số liệu đã thu nhận được cho các đối tượng sử dụng thông tin như: Các cơ quan của Nhà nước, các nhà kinh tế, nhà quản lý doanh nghiệp. Nhờ có những thông tin này các cơ quan quản lý của Nhà nước, các nhà kinh tế, nhà quản lý doanh nghiệp sẽ có cơ sở để quản lý tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh, để nghiên cứu, phân tích và đánh giá đúng thực trạng các hoạt động, thực trạng tài chính, thấy hết được khả năng về cơ sở vật chất kỹ thuật, về lao động, những khả năng hiện đang dùng và những khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp, từ đó có các giải pháp chính xác phù hợp với thực tế của doanh nghiệp, để lãnh đạo doanh nghiệp hoạt động đúng hướng và đem lại hiệu quả ngày càng cao.

Các nhiệm vụ trên có liên quan chặt chữ với nhau. Hạch toán kế toán thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ này mới phát huy được một cách tích cực, hiệu quả vai trò của mình là công cụ phục vụ quản lý kinh tế tài chính. Thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ tài sản, ghi chép tính toán phản ánh tài sản, sự vận động của những tài sản đó trong các quá trình kinh tế và kết quả của các hoạt động, phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành động xâm phạm tài sản của doanh nghiệp thì mới đảm bảo cho doanh nghiệp có đủ tiền để vật chất để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã đinh, mới có cơ sở để thực hiện sự kiểm tra và cung cấp thông tin. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời mới đảm bảo cho công tác hạch toán kế toán ghi chép, tính toán, quản lý các tài sản chặt chẽ, đúng các quy định của Nhà Nước, mới có cơ sở pháp lý để thực hiện phân tích hoạt động kinh tê, khai thác khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp.