Tác động, lợi ích và hạn chế của tự do thương mại quốc tế

1. Tác động của tự do thương mại quốc tế đến nền kinh tế một quốc gia

1.1. Canh tranh không hoàn hảo và chính sách thương mại

Trong quá trình tự do thương mại quốc tế, các quốc gia có xu hướng thúc đẩy thương mại và giảm thiểu các rào cản thương mại để hoà mình vào nền kinh tế của khu vực và thế giới. Khi các hàng rào thuế quan được bãi bỏ, các doanh nghiệp trong nước gặp sức ép lớn về cạnh tranh, phải đối mặt với các công ty và các tập đoàn quốc tế đa quốc gia có tiềm lực tài chính dồi dào với nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao. Thực tế này dẫn đến bối cảnh cạnh tranh không hoàn hảo tăng cao tại từng quốc gia nói riêng cũng như thị trường quốc tế nói chung. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia khi tham gia hội nhập tự do hóa thương mại quốc tế phải xác định định hướng phù hợp trong chính sách thương mại của mình. Trong nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng như hiện nay, các nhà hoạch định chính sách có thể bị gây sức ép phải bảo hộ thị trường trong nước trước sự cạnh tranh với nước ngoài và dựng lên các rào cản thương mại mới để bảo vệ lợi ích cho một nhóm nhỏ hoặc có thể sử dụng các biện pháp thúc đẩy thương mại, đầu tư từ nước ngoài.

Gandolfo (2014) khẳng định chính sách thương mại quốc tế có thể bị ảnh hưởng bởi tính chất của cạnh tranh trên thị trường. Chính sách thương mại quốc tế bao gồm hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp Chính phủ áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia trong mỗi thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó. Hiện nay, trên thế giới, chính sách thương mại quốc tế thường được biểu hiện dưới hai hình thức chính là tự do hóa thương mại và bảo hộ thương mại. Trong đó, tự do hóa thương mại là chính sách Nhà nước thực hiện nhằm giảm bớt trở ngại trong hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trường nội địa cho hàng hóa nước ngoài. Ngược lại, chính sách bảo hộ thương mại là chính sách đặt ra những rào cản để bảo vệ, hỗ trợ nền sản xuất trong nước. Tùy theo mục tiêu và định hướng phát triển trong từng thời kỳ mà các quốc gia sẽ lựa chọn áp dụng và phối hợp thực hiện chính sách thương mại quốc tế cho phù hợp.

1.2. Các ngành công nghiệp mới nổi

Tự do thương mại quốc tế là giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, những tác động của nó đối với các ngành công nghiệp mới nổi không phải lúc nào cũng tích cực. Một ngành công nghiệp trong nước đang ở trong giai đoạn mới nổi không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp đã được thành lập lâu năm, do đó nó phải được bảo hộ bởi Chính phủ thông qua công cụ thuế quan để có thể phát triển và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Sự bảo hộ này không chỉ nhằm mục đích giúp ngành công nghiệp đó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác mà còn mang lại những lợi ích nhất định cho xã hội xuất phát từ các hoạt động của ngành công nghiệp mới nổi (Gandolfo, 2014).

Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng các khoản trợ cấp về giá để hỗ trợ các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp mới nổi. Thông qua sự bảo hộ này kết hợp với việc liên tục cải tiến kỹ thuật sản xuất, nâng cao trình độ lao động, các ngành công nghiệp mới nổi sẽ có cơ hội duy trì và đóng góp nhiều lợi ích thiết thực cho các quốc gia trong thời kỳ tự do thương mại quốc tế. Tuy nhiên, việc bảo hộ ngành công nghiệp mới nổi cho dù có thể mang lại những lợi ích về lâu dài thì đều gây ra những tổn thất liên quan đến phúc lợi trong ngắn hạn và trung hạn, vì vậy cần phải áp dụng các biện pháp bảo hộ một cách hợp lý.

Hình 7.1: Tác động của tự do thương mại quốc tế đến các ngành công nghiệp mới nổi

Đồ thị trên cho thấy khi thuế suất đánh vào mặt hàng A thay đổi điểm sản xuất từ A tới H sẽ có lợi cho sản lượng đầu ra trong nước của mặt hàng A. Tuy nhiên, điểm tiêu thụ thay đổi từ EC tới E’C nên phúc lợi xã hội giảm do đường bàng quan I’ thấp hơn I’’’. Nếu thay vì áp đặt mức thuế, Chính phủ trợ cấp sản lượng đầu ra trong nước của sản phẩm A để đạt được điểm sản xuất H thì tình hình sẽ được cải thiện. Trên thực tế, do không có sự khác biệt giữa giá cả tương đối thế giới và trong nước nên điểm tiêu thụ sẽ là HC, điểm này nằm trên đường I’’ (cao hơn I’). Nhìn chung, không thể khẳng định chắc chắn bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ là có lợi hay có hại nhưng có thể khẳng định với cùng mức lợi ích như nhau, chi phí sẽ thấp hơn nếu Chính phủ sử dụng trợ cấp thay vì thuế quan.

1.3. Biến động thị trường hàng hóa nội địa

Khi một quốc gia mở cửa thương mại, sản lượng của sản phẩm A sẽ tăng và dịch chuyển đến một điểm sản xuất ở bên trái điểm Q, chẳng hạn Q’. Giả định tại một nền kinh tế nhỏ, do quốc gia này có thể trao đổi hàng hóa với các điều khoản thương mại nhất định nên điểm tiêu thụ sẽ là E. Điểm E rõ ràng thấp hơn so với điểm Q do nằm trên đường bàng quan thấp hơn. Chẳng hạn điểm sản xuất là Q’’ thay vì Q’, quốc gia đó có thể sẽ tiêu thụ được một mức sản lượng là H, nằm trên một đường bàng quan cao hơn so với Q. Như vậy, sự biến động hàng hóa nội địa đã làm cho quốc gia này triển khai hướng chuyên môn hóa sai.

Hình 7.2: Tác động của tự do thương mại quốc tế đến biến động thị trường hàng hóa nội địa

Trên thực tế, trong trường hợp không có sự biến động, tỷ lệ giá trong nước tại điểm Q sẽ bằng với độ dốc tại PePe, điều này cho thấy lợi thế so sánh của quốc gia đó phù hợp để sản xuất sản phẩm B. Khi các biện pháp bảo hộ được áp dụng, chẳng hạn như áp dụng thuế quan đối với sản phẩm B bằng việc tăng mức giá tương đối trong nước, kých thích việc sản xuất các mặt hàng này, làm tăng phúc lợi xã hội cho đất nước đó. Tuy nhiên, việc áp dụng mức thuế nhập khẩu trong trường hợp này sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình tiêu thụ do người tiêu dùng trong nước phải trả giá cao hơn để mua hàng hóa B so với người tiêu dùng nước ngoài.

Như vậy, sự biến động thị trường hàng hóa nội địa có thể là do yếu tố độc quyền (làm cho giá bán sản phẩm cao hơn chi phí cận biên) hoặc do nền kinh tế bên ngoài. Khi giá tương đối trong nước và tỷ lệ biến đổi cận biên không tương xứng nghĩa là tự do thương mại quốc tế có thể làm giảm phúc lợi xã hội.

Tự do thương mại quốc tế tạo điều kiện cho các quốc gia được hưởng lợi nhờ chuyên sản xuất những hàng hóa và dịch vụ mà họ có thể sản xuất hiệu quả nhất, và thông qua việc trao đổi những hàng hóa, dịch vụ này để có được những hàng hóa, dịch vụ mà các quốc gia khác sản xuất với chất lượng cao hơn với giá cả thấp hơn. Bằng hình thức này, các quốc gia sẽ được hưởng lợi từ việc tận dụng những lợi thế so sánh của mình, đồng thời người tiêu dùng sẽ có nhiều lựa chọn hơn (Gandolfo, 2014). Việc dỡ bỏ những rào cản thương mại sẽ cho phép mỗi cá nhân có cơ hội được tiếp cận với thị trường rộng lớn của thế giới với đầy đủ các loại mặt hàng của một nền kinh tế hiện đại.

1.4. Biến động thị trường dịch vụ nội địa

Sự biến động trong trường hợp này hàm ý giá cả của dịch vụ phục vụ sản xuất và giá trị sản xuất cận biên, chẳng hạn như tỷ lệ tiền lương trong các ngành công nghiệp có thể vượt quá giá trị sản phẩm biên của lao động trong ngành công nghiệp, hoặc tỷ lệ lương trong nông nghiệp có thể khác so với tỷ lệ lương trong công nghiệp mặc dù cả hai đều có năng suất cận biên tương ứng tương đương nhau. Điều này dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn, do đó quốc gia này sẽ không nằm trên đường cong biến đổi thật sự của nó (TAQTB chứ không phải TAQ’TB). Nói cách khác, sự biến động đang được xem xét đã làm cho quốc gia này không thể đạt tới điểm hiệu quả do để đạt được hiệu quả thì tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên phải tương xứng với tỷ lệ yếu tố giá (Gandolfo, 2014).

Hình 7.3: Tác động của tự do thương mại quốc tế đến biến động thị trường dịch vụ nội địa

Do đường cong hiệu quả TAQTB xuất phát từ điểm hiệu quả nên nếu một quốc gia không đạt tới điểm này thì năng lực sản xuất của nó cũng sẽ không đạt được mức tối đa. Giả định trong thời điểm hiện nay, sự biến động trong thị trường dịch vụ sản xuất không có ảnh hưởng đến thị trường hàng hóa, quốc gia đó sẽ sản xuất tại điểm Q’ thay vì điểm Q và sẽ tiêu thụ tại điểm C’ thay vì điểm C, vì vậy sẽ đạt được mức độ phúc lợi thấp hơn. Tuy nhiên, sự biến động thị trường dịch vụ nội địa sẽ gây ra biến động trong thị trường hàng hóa, do đó điểm sản xuất của quốc gia đó sẽ dịch chuyển sang bên trái điểm Q’, chẳng hạn như Q’’ và điểm tiêu dùng sẽ là C’’.

Tự do thương mại quốc tế đòi hỏi các quốc gia cần phải phân biệt rõ ràng việc đạt được điểm tối ưu trên đường cong biến đổi biến động và trên đường cong biến đổi thực sự. Chính sách tối ưu không phải là áp đặt các mức thuế mà là trợ cấp sản xuất sản phẩm A và / hoặc đánh thuế lên sản phẩm B để giúp quốc gia đó đạt được điểm tối ưu Q’ trên đường biến đổi biến động TAQ’TB. Các chính sách tối ưu sẽ bao gồm thuế và/ hoặc trợ cấp về việc sử dụng các dịch vụ phục vụ sản xuất để loại bỏ các yếu tố gây biến động. Bằng cách này, quốc gia đó sẽ đáp ứng được các điều kiện về hiệu quả và có thể dịch chuyển tới đường cong biến đổi thực sự TAQTB khi sản xuất tại điểm Q và tiêu thụ tại điểm C sẽ biểu thị mức phúc lợi cao hơn C’.

2. Lợi ích của tự do thương mại quốc tế

Tự do thương mại quốc tế mang lại nhiều lợi ích, nổi bật gồm:

  • Thúc đẩy các cơ hội thị trường mới và thu hút đầu tư nước ngoài: Gandolfo (2014) khẳng định việc giảm bớt các rào cản về tiếp cận thị trường chính là yếu tố quan trọng mang lại cho các quốc gia rất nhiều lợi ích tùy thuộc vào khả năng điều chỉnh và ứng phó của các quốc gia đó. Lợi ích đầu tiên mà tự do hóa thương mại mang lại là thúc đẩy các cơ hội thị trường mới và thu hút đầu tư nước ngoài cho quốc gia đó. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật đã mở rộng các lĩnh vực có thể trao đổi được giữa các quốc gia trên thế giới. Nếu như trước đây, các giao dịch quốc tế gần như là không thể hoặc là quá tốn kém do những yếu tố về pháp lý, thể chế, kỹ thuật và kinh tế thì ngày nay đã trở nên dễ dàng hơn rất nhiều vì khả năng di chuyển và liên lạc của mọi người đã không còn bị giới hạn bởi các khoảng cách về địa lý. Chính vì vậy, các quốc gia, các doanh nghiệp, thậm chí là các cá nhân có thể tìm kiếm cho mình những thị trường mới để đầu tư sao cho những lợi ích kinh tế thu được là cao nhất hoặc cũng có thể cho thấy những tiềm năng kinh tế nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó, các yếu tố như nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh chóng, nhờ vậy các nước đều có khả năng tiếp cận, sử dụng với mức độ khác nhau. Cùng với dòng chảy mạnh mẽ về vốn, hàng loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ sản xuất và khoa học quản lý tiên tiến được thực hiện, góp phần hữu hiệu vào sự phát triển kinh tế của từng quốc gia, giúp các quốc gia có cơ hội tìm kiếm các thị trường mới, mở rộng hoạt động giao thương trên thế giới.

  • Người tiêu dùng sẽ có điều kiện tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ một cách dễ dàng hơn: Chính nhờ sự đa dạng của các sản phẩm, dịch vụ được cung cấp trên thị trường sẽ thỏa mãn được những nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng ở mức độ cao nhất. Nguyên nhân là do khi thị trường được tự do hoá, sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp sẽ tăng lên, để thu hút được khách hàng đồng thời thu được nhiều lợi ích kinh tế, các nhà cung cấp buộc phải đáp ứng tốt hơn về chất lượng, mẫu mã … của sản phẩm khi tung ra thị trường. Ngoài ra, tự do thương mại quốc tế sẽ là môi trường tốt khuyến khích các nhà cung cấp đưa ra những loại sản phẩm, dịch vụ mới, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, một số thị trường sản phẩm, dịch vụ như hạ tầng, tài chính, viễn thông, vận tải … được tự do hoá sẽ tác động tích cực đến mọi ngành nghề trong nền kinh tế của các quốc gia cũng như đến các lĩnh vực có liên quan. Nhờ vậy mà các chi phí cho sản xuất kinh doanh dịch vụ giảm, khiến người tiêu dùng có cơ hội tiếp cận dịch vụ với chi phí thấp hơn. Hơn nữa, các dịch vụ hạ tầng còn là đầu vào cho các ngành sản xuất hàng hoá khác nên chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cũng giảm theo. Việc nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cũng cho phép chúng ta có nhiều lựa chọn hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. Không chỉ thế, chất lượng của hàng hóa, dịch vụ sản xuất nội địa có thể gia tăng do phải cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu.

  • Giảm chi phí, nâng cao lợi nhuận và tăng cường khả năng cạnh tranh cho các nhà cung cấp: Xuất phát từ việc tự do thương mại quốc tế thúc đẩy gia tăng cạnh tranh và mức độ hiệu quả của các thị trường sản phẩm, dịch vụ, qua đó giúp cho các nhà cung cấp giảm chi phí sản xuất, kinh doanh. Nhờ vậy mà họ có thể gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường và lợi nhuận doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tự do thương mại quốc tế sẽ giảm khả năng xuất hiện các nhà độc quyền mua, nhờ đó giảm khả năng nhà cung cấp bị thua thiệt vì bị chèn ép khi họ chỉ có thể cung cấp hàng hoá cho một đơn vị duy nhất.

Tự do thương mại quốc tế còn đặt ra yêu cầu để Chính phủ phải quan tâm hơn nữa đến các chính sách và sự minh bạch trong các chính sách của mình, nhờ vậy mà hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ sẽ mạnh dạn hơn trong việc đưa ra các quyết định về đầu tư.

  • Tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế: Xét một cách tổng thể, tự do thương mại quốc tế sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế. Cụ thể, mở cửa thị trường quốc tế sẽ khuyến khích quá trình chuyển giao công nghệ của các quốc gia. Nhờ sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các nguồn lực đầu vào như sức lao động, vốn, công nghệ … sẽ được phân bổ một cách hiệu quả, do đó có thể đóng góp vốn cho tăng trưởng và phát triển bằng cách khuyến khích nhập khẩu với giá rẻ hơn để thay thế cho các dịch vụ mà trong nước cung cấp kém hiệu quả. Thông qua đó, các tài nguyên và nguồn lực sẽ được giải phóng để phục vụ cho các mục đích khác.

Tự do thương mại quốc tế cũng có vai trò củng cố và xúc tiến xuất nhập khẩu hàng hoá do các chi phí liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá, như chi phí thanh toán, bảo hiểm, vận tải… giảm đáng kể nhờ các rào cản với những hang hóa này đã bị dỡ bỏ. Bên cạnh đó, tự do thương mại quốc tế cũng tạo môi trường cạnh tranh cho các dịch vụ phát triển nhờ chi phí giao dịch quốc tế giảm đáng kể, nhờ vậy một số loại dịch vụ sẽ được cung cấp ra thị trường quốc tế với doanh thu và lợi nhuận cao hơn. Nhờ vào những yếu tố trên mà thu nhập cho người lao động và chủ sở hữu các doanh nghiệp sẽ được cải thiện nhờ sự gia tăng các cơ hội kinh doanh.

Ngoài ra, việc xoá bỏ độc quyền và tạo sự bình đẳng trong giao thương sẽ khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh không ngừng với nhau, không chỉ sự cạnh tranh diễn ra tại thị trường trong nước mà còn cả thị trường quốc tế bởi nếu như doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi và các yếu tố sản xuất sẽ được chuyển sang cho các doanh nghiệp có hiệu quả tốt hơn. Nhờ vậy, các nguồn lực của nền kinh tế sẽ được sử dụng với mức hiệu quả kinh tế cao nhất.

  • Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế: Cán cân thanh toán quốc tế cho thấy được toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định và được sử dụng như một công cụ đắc lực để quản lý hoạt động đối ngoại của quốc gia đó. Cơ cấu cán cân thanh toán quốc tế chủ yếu bao gồm cán cân ngoại thương, cán cân dịch vụ, cán cân nguồn vốn … trong đó ngoại thương hữu hình vẫn được coi là hoạt động quan trọng nhất. Đối với các nước đang phát triển có nền kinh tế mở thì quan tâm đến việc cải thiện cán cân ngoại thương sẽ có ý nghĩa quyết định đến việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế do xuất phát điểm trình độ kinh tế của các nước này thấp nên hiệu quả kinh tế đối ngoại thu được thường không được như mong muốn. Nếu như hoạt động tự do thương mại quốc tế của một quốc gia là tốt thì cán cân thanh toán sẽ an toàn, giúp ổn định nền kinh tế vĩ mô và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư.
  • Thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hoá, tri thức quốc tế và tăng cường sự hiểu biết, tình hữu nghị giữa các dân tộc: Tự do thương mại quốc tế cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Nhờ vậy, các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ … được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Quá trình tự do hóa thương mại đóng góp thiết thực vào tiến trình phát triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, dân chủ hoá các sinh hoạt quốc tế, tham gia đấu tranh thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn.

3. Thách thức từ tự do thương mại quốc tế

Bên cạnh những lợi ích kể trên, tự do thương mại quốc tế cũng tiềm ẩn nhiều thách thức như:

  • Nguy cơ bất bình đẳng giữa các quốc gia: Tự do thương mại quốc tế diễn ra ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia phát triển bên cạnh việc tích cực mở cửa thị trường, đẩy mạnh đầu tư nhưng khi quyền lợi bị xâm hại họ sẽ sẵn sàng áp dụng luật chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹ thuật … lên bất kỳ quốc gia nào. Đôi khi chính điều này gây ra sự bất bình đẳng trong quan hệ giao thương giữa các quốc gia, gây ra không ít tổn thất về mặt kinh tế, xã hội cho các quốc gia khác.

Ngoài ra, các nước đang phát triển đôi khi sẽ phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư … chủ yếu do các nước phát triển áp đặt. Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các quốc gia phát triển đặt ra “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia vào các tổ chức, liên minh kinh tế. Tự do hoá thương mại lẽ ra phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xem như xuất phát điểm đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Như vậy, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới sẽ trở nên bất bình đẳng, bất hợp lý và phần bất lợi lớn thuộc về đại đa số các nước đang phát triển.

  • Môi trường bị ô nhiễm nếu quản lý không tốt: Tự do thương mại quốc tế thúc đẩy hoạt động sản xuất, tiêu dùng tại các quốc gia, điều này đồng nghĩa với việc mỗi quốc gia sẽ có thêm một lượng rác thải khá lớn như rác thải công nghiệp, y tế, sinh hoạt …. Việc tái chế hay tiêu hủy các loại rác này nếu như không được quản lý tốt sẽ gây ra ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe, đời sống, xã hội của người dân.

Ngoài ra, do việc sử dụng hàng rào bảo hộ kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và việc áp dụng hàng rào kỹ thuật tại các quốc gia đang phát triển lại không mấy có lợi nên nhiều lĩnh vực, công đoạn có mức độ ô nhiễm môi trường cao được các nhà đầu tư tại các nước phát triển chuyển sang các nước đang phát triển, làm hủy hoại môi trường ở những quốc gia này. Nguyên nhân là do hàng rào về môi trường nghiêm ngặt ở các nước phát triển đối với một số ngành nghề khiến các nhà đầu tư tại các nước này tìm cách đầu tư sang các nước đang phát triển – nơi chú trọng thu hút vốn đầu tư mà vấn đề môi trường không được kiểm soát chặt chẽ.

  • Nền kinh tế mới nổi dễ bị chi phối bởi các cá nhân, tổ chức kinh tế mạnh: Tự do thương mại quốc tế giúp các quốc gia có thể thu hút được một luồng tiền đầu tư không nhỏ trong đó không thể thiếu các cá nhân, tổ chức kinh tế có vốn lớn, công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý cao. Các cá nhân, tổ chức này chính là những yếu tố gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc cạnh tranh, đôi khi buộc họ phải chấp nhận làm công ty con để duy trì sự tồn tại. Điều này dẫn đến việc mất chủ động của nền kinh tế, đặc biệt là khi quốc gia đó gặp khó khăn hay khủng hoảng. Các cá nhân, tổ chức này sẽ rút vốn đầu tư làm cho tình hình kinh tế, xã hội tại các quốc gia được đầu tư trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Hơn nữa, những nền kinh tế mới nổi có trình độ kinh tế thấp, quản lý còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ còn hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh khiến các nền kinh tế này gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước và trên thị trường quốc tế. Bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên tiềm tàng. Về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, các nước này vẫn còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và việc tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ chưa được người dân quan tâm nhiều.

  • Các vấn đề xã hội nảy sinh: Về xã hội, tự do thương mại quốc tế đặt ra một thách thức nan giải đối với rất nhiều quốc gia trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những quốc gia có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Không những thế, trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá gây ra nguy cơ thất nghiệp và sự gia tăng phân hoá giàu nghèo. Cụ thể, tự do hóa thương mại thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài, tạo nên sự cạnh tranh trong việc xây dựng các khu công nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư. Nếu như việc xây dựng này không được tính toán hợp lý và mang tính dài hạn sẽ gây ra những vấn đề về xã hội như thất nghiệp, cờ bạc, nghiện hút, đời sống người dân khó khăn … do đất được sử dụng để xây dựng các khu công nghiệp được lấy từ nông nghiệp.

Bên cạnh đó, tự do thương mại quốc tế còn có thể có tác động tiêu cực về mặt xã hội ở một khía cạnh nữa, thể hiện ở ảnh hưởng đối với các nhóm lợi ích. Nhiều cơ quan công quyền muốn cản trở quá trình tự do hoá thương mại vì hoạt động này có thể khiến họ mất vai trò quản lý khi thị trường trong nước sẽ mở cửa và phải thực hiện những quy định của quốc tế. Ngoài ra, trong quá trình tự do thương mại quốc tế sẽ khiến một số doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu quả do không đủ sức cạnh tranh hoặc không nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Hậu quả là lao động của các doanh nghiệp này sẽ bị mất việc làm, mất nguồn thu nhập.

Vì vậy, sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Điều này đặt ra vấn đề làm thế nào để phát triển bền vững trong quá trình tự do thương mại quốc tế của mỗi quốc gia. Sự phát triển bền vững ở đây đòi hỏi vừa phải đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không gây ảnh hưởng, tổn hại đến xã hội, môi trường …

  • Tác động tiêu cực đến cân đối ngân sách của Chính phủ: Về mặt kinh tế, việc thay đổi chính sách thương mại khi tiến hành tự do thương mại quốc tế sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách và cân đối ngân sách của Chính phủ. Cụ thể, mở cửa thị trường nội địa sẽ gia tăng nhu cầu nhập khẩu và làm giảm thu ngân sách Chính phủ. Khả năng huy động nguồn lực, tiết kiệm của Chính phủ sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt là đối với các quốc gia có nguồn thu ngân sách chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động nhập khẩu.
  • Nguy cơ gia tăng khoảng cách giữa nước giàu và nước nghèo: Tự do thương mại quốc tế khiến các nhà cung cấp trong nước sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài. Nếu như năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước không được nâng cao, vị trí và khả năng chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị suy giảm, gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hang hóa, dịch vụ. Chính điều này đã đẩy nguy cơ của việc chuyển thu nhập từ nước nghèo sang nước giàu, làm gia tăng cách giữa nước giàu và nước nghèo trên thế giới.
  • Những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc: Về an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ mới như an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố …. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi các quốc gia phải có năng lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực trước những biến động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị – xã hội. Tự do thương mại quốc tế cũng dẫn đến nguy cơ các giá trị ngoại lai xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Nền văn hóa của các quốc gia đang đứng trước tình trạng vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá.

Nguồn: Nguyễn Hoàng Quy và cộng sự (2018), Chính sách thương mại quốc tế: Lý luận và thực tiễn Việt Nam hội nhập toàn cầu, NXB Thống kê.