Các giải pháp hoàn thiện và triển khai chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới

Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới đến nay đã trở thành nước có thu nhập mức trung bình và thuộc các nước đang phát triển. Việt Nam từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung đến nay đã trở thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chủ động, tích cực tham gia các chương trình tự do hóa mậu dịch trong khu vực, đàm phán các hiệp định song phương và đa phương. Đến nay Việt Nam ngày càng có vị trí và tiếng nói trong khu vực cũng như trên thế giới. Hướng đi đúng đắn của chính sách thương mại Việt Nam đã mở toang cánh cửa thương mại giữa chúng ta với các nước trên thế giới. Mở ra một thời kỳ hưng thịnh cho hoạt động thương mại trong thời gian tới.

Tuy nhiên, khi chúng ta hội nhập càng nhanh, sâu, rộng, chúng ta không thể tránh khỏi những khó khăn, thách thức. Đặc biệt, hiện tại chính sách thương mại của Việt Nam vẫn đang còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn như vấn đề về tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch, vấn đề về thuế quan, phi thuế quan, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càn phức tạp… Việt Nam cần có những chính sách thương mại gì để vượt qua những khó khăn thách thức này; cần những giải pháp cụ thể để đảm bảo tiến trình hội nhập, tự do hóa thương mại được thuận lợi trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và vị thế quốc gia.

Trên cơ sở thực trạng và các bài học kinh nghiệm, bốn nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại Việt Nam trong thời gian tới được đề xuất, gồm:

1. Giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại về hàng hóa

  • Thứ nhất là giải pháp hoàn thiện chính sách thuế:

Để đáp ứng những cam kết về thuế khi Việt nam hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống thuế. Trong đó, cần thiết phải thay đổi đó là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp. Đó là những sắc thuế chịu ảnh hưởng nhiều nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế như việc cắt giảm thuế suất theo lộ trình, cải tiến cách thức quản lý… Tuy nhiên, hiện nay quá trình thực thi chính sách thuế ở Việt Nam còn nhiều điểm không hợp lý như: Gian lận trong việc xác định trị giá tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu dẫn đến lậu thuê, trốn thuế, miễn giảm thuế gây mất nguồn thu cho nhà nước tác động tới phát triển kinh tế của đất nước. Do đó, xây dựng chính sách thuế phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế để áp dụng hiệu quả trên thực tế, để đảm bảo nguồn thu ngân sách chính phủ, bảo hộ được ngành sản xuất trong nước và đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ của Việt Nam trong quá trình thực thi các cam kết, đồng thời đảm bảo được yêu cầu và bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn… tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia là vô cùng cần thiết. Một số biện pháp gợi ý sử dụng nhằm hoàn thiện chính sách thuế trong thời gian tới như sau:

  • Loại bỏ dần, thay thế thuế quan, tạo sự minh bạch: Việt nam cần phải thống nhất thuế quan trong ngắn hạn, cải thiện sự gắn kết trong chính sách thuế; chuyển thuế suất cụ thể sang thuế suất tính theo giá trị. Khi tham gia TPP, FTA chúng ta phải loại bỏ dần thuế quan vì vậy cần có chính sách thay thế bằng các loại thuế nội địa như: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, hay thuế đánh vào cá nhân như thuế thu nhập, thuế đánh vào công ty thuế pháp nhân,thuế môn bài, thuế giao dịch tài chính… nhằm thu lại mức giảm thu từ thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá nhập khẩu.
  • Minh bạch trong chính sách thuế: Tính minh bạch của chính sách thuế nói về độ rõ ràng của các quy định về thuế và việc quản lý thuế. Nói lên trách nhiệm của các cơ quan thuế trong việc đưa ra lời giải trình về các hành động của họ cho các hành động của họ cho các đối tượng có liên quan, như công chúng và giới truyền thông. Do đó, để minh bạch chính sách thuế thì việc tuyên truyền, phố biến, công khai, minh bạch quy trình, thủ tục hành chính về thuế cần được ngành Thuế thực hiện thường xuyên. Hay các cơ quan thuế như tổng cục thuế phải cải tiến trang web của mình đề người nộp thuế dễ dàng tiếp cận nhiều loại thông tin và thuận tiện cho ho khi gởi khiếu nại. Hơn nữa, quy trình thiết kế luật thuế phải trung thành với một nghuyên tắc cơ bản để các bên liên quan có thể kiểm tra được tính nhất quán của các luật thuế. Bên cạnh đó, các cơ quan thanh tra thuế, hay hải quan cần nâng cao trách nhiệm trong việc thẩm tra các động kinh doanh phi pháp, đấu tranh chống buôn lậu, gian lân thương mại, thao túng thị trường và cạnh trang bất chính. Phát hiện và xử lý nghiêm khắc của cán bộ thuế, người nộp thuế khi vi phạm pháp luật.
  • Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến thuế xuất nhập khẩu: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa các điều ước quốc tế, thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế xuất nhập khẩu. Trong dài hạn cần làm hài hòa cơ sở hệ thống thuế như các chính sách khuyến khích thuế, các hệ thống thuế giá trị gia tăng, và thuế tiêu thụ đặc biệt… Việt nam và các nước ASEAN cần thực thi một cách nhất quán và hiệu quả các cam kết giao thương quốc tế.
  • Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, hoàn thiện hệ thống cơ quan nhà nước tham gia quản lý, điều hành hoạt động về thuế xuất nhập khẩu: Tuyển dụng nhân tài, đào tạo, nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn cho cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu. Việt Nam cần áp dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động thuế quan như khai thuế, đóng thuế và tìm hiểu thông tin về thuế. Các cơ quan thuế cần hợp lý hóa hơn nữa các thủ tục và rút ngắn thời gian cần thiết ở tất cả các khâu; như thành lập doanh nghiệp mới mới không thể quá một tuần, hay thời gian cho doanh nghiệp hoàn tất thủ tục đóng thuế ít nhất bằng trung bình của nhóm ASEAN-6 (171 giờ/năm). Điển hình như hình thức “thương mại không giấy tờ” cho phép các nhà xuất nhập khẩu có thể nhận được giấy phép trong vòng 3 phút.

Bên cạnh đó, cần có sự liên kết giữa các cục thuế và cơ quan khác để bảo đảm tuân thủ luật thuế của doanh nghiệp. Hiện nay doanh nghiệp nộp thuế luôn tìm nhiều lỗ hổng trong hệ thống thuế để tránh né nghĩa vụ thuế. Do đó, hợp tác giữa các bên liên quan trong hệ thống thuế không những làm giảm những cơ hội bất tuân thủ luật mà còn làm tăng hiệu quả quản lý thuế. Cuối cùng cần nâng cao ý thức pháp luật cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu bằng cách thường xuyên cập nhật thông tin cho doanh nghiệp về chính sách, pháp luật, tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.

  • Thứ hai, cần sử dụng hợp lý các công cụ phi thuế quan:

Khi mà Việt nam gia nhập WTO, TPP, FTA thì các biện pháp thuế quan ngày càng giảm, các biện pháp phi thuế quan (Non Tariff Measures – NTMs) ngày càng tăng. Thời gian qua khi Việt Nam tham gia các FTA và TPP đều có những quy định về hàng rào phi thuế quan, cụ thể: Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) tại Chương 6 – Các quy định Kỹ thuật, Tiêu chuẩn và các Thủ tục đánh giá hợp chuẩn. FTA Việt Nam – Chile có Chương 7 – Các Quy chuẩn kỹ thuật, Tiêu chuẩn và Quy định đánh giá sự phù hợp. FTA giữa Việt Nam – Hàn Quốc và Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu đều có Chương 6 – Hàng rào kỹ thuật trong thương mại. FTA Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA) có 1 Chương về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại, trong đó quy định EU và Việt Nam đã nhất trí tăng cường các nguyên tắc của các hàng rào kỹ thuật TBT trong WTO trong các thỏa thuận thương mại. Việt Nam đã cam kết tăng cường việc sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong việc soạn thảo các quy định TBT. Và mới đây, Hiệp định TPP có Chương 8 – Hàng rào kỹ thuật trong thương mại cơ bản dựa trên Hiệp định TBT của WTO.

Qua phân tích trên ta thấy chúng ta phải chủ động, chuẩn bị kỹ lưỡng để tận dụng được hết các lợi ích có được từ việc cắt giảm thuế quan, vượt qua các rào cản phi thuế quan trong các FTA, TPP quy định như về xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ, sở hữu trí tuệ, cấm xuất nhập khẩu, giấy phép, hạn ngạch và các biện pháp hành chính khác… Từ đó, giúp Việt Nam thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ và nâng cao trình độ quản lý. Một số giải pháp chủ yếu trong chính sách thương mại quốc tế về hàng rào phi thuế quan đó là:

  • Việt Nam cần rà soát và xây dựng áp dụng hệ thống hàng rào phi thuế quan trong giai đoạn mới: Đề án thực thi Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại giai đoạn 2011 – 2015 ban hành theo Quyết định số 682/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ đã kết thúc. Cần tăng cường xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn địa phương theo Chương trình 712 giai đoạn 2016-2020, hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực theo yêu cầu các Chương về TBT của các FTA. Bằng việc xây dựng hệ thống các Phòng thí nghiệm, thử nghiệm hiện đại, đảm bảo theo các chuẩn mực quốc tế, nhằm hỗ trợ tích cực cho việc xây dựng các rào cản kỹ thuật trong thương mại, góp phần quan trọng vào kiểm soát chất lượng hàng hóa nói chung và là công cụ để kiểm soát hiệu quả hàng nhập khẩu. Việt nam cũng cần tăng cường cung cấp thông tin về rào cản phi thuế quan cho doanh nghiệp trong nước. Hiện nay khó tiếp cận các thông tin về rào cản phi thuế quan và các tiêu chuẩn khác. Trong khi đó, việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp là biện pháp hỗ trợ cho phép (hộp xanh-WTO), cung cấp thông tin thị trường và rào cản cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
  • Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong các ngành có lợi thế và dễ bị tổn thương nhất: Việt nam có lợi thuế trong xuất khẩu dày da, hàng dệt may bên cạnh đó là các sản phẩm ngành thủy sản, lúa gạo… Trong TPP, FTA có chương quy định về hàng dệt may, và các quy định hiện nay của ba thị trường lớn của ngành dệt may Việt Nam là Mỹ, EU và Nhật Bản. Các thị trường này rất chú trọng đến vấn đề an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng và bảo vệ môi trường, vì vậy, họ thường đưa ra các tiêu chuẩn về chống cháy và bảo vệ môi trường rất khắc khe. Những tiêu chuẩn này thực sự là rào cản đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì những yêu cầu cao về nguyên phụ liệu và máy móc, công nghệ. Vì vậy, ngành dệt may trong nước phải xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến theo tiêu chuẩn ISO (ISO 9001, ISO 17020, ISO 14001, ISO/IEC 17025, GMP…). Hay trong các sản phẩm nông nghiệp cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn về VIETGAP, hay GLOBALGAP… chỉ có thể làm như vậy các doanh nghiệp mới có thể xâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Về quy tắc xuất xứ: Như trong FTA Việt nam ký kết với EU (EVFTA) thì quy tắc xuất xứ yêu cầu đi từ vải nhưng trong Hiệp định TPP quy tắc xuất xứ bắt buộc đi từ sợi, tức là tất cả nguyên phụ liệu của quá trình sản xuất từ sợi trở đi phải xuất phát từ các nước thành viên TPP. Trong bối cảnh ngành dệt may Việt Nam hiện nay, hơn 50% nguyên phụ liệu nhập từ nước ngoài, trong đó 48% phải nhập từ Trung Quốc (Theo Chinhphu.vn – TH), còn lại là của các nước Hàn Quốc, Đài Loan. Với sự phụ thuộc về nguyên liệu như vậy, doanh nghiệp dệt may trong nước sẽ rất khó khăn khi muốn tiếp cận những ưu đãi thuế quan trong các Hiệp định thương mại đã được ký kết. Vậy, chính sách thương mại quốc tế cần làm gì để giúp các doanh nghiệp vượt qua:

  • Nhà nước cần triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn của thị trường đối tác gắn với đổi mới trang thiết bị công nghệ và bảo vệ môi trường. Chúng ta cũng cần chú trọng đầu tư phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ trong các FTA.
  • Các doanh nghiệp cũng cần tích cực, chủ động thực hiện những giải pháp để khắc phục các hạn chế, vượt qua các rào cản phi thuế quan trên. Chẳng hạn như doanh nghiệp cần chủ động cập nhật các thông tin về tập quán và các quy định pháp luật có liên quan đến mặc hàng cần xuất khẩu của nước đối tác, đầu tư xây dựng thương hiệu, cải thiện lợi ích và môi trường làm việc của người lao động; về lâu dài…

Biện pháp hạn ngạch: Việt nam cũng cần áp dụng các biện pháp hạn ngạch như EU đưa ra một số mã hàng thủy sản hay với gạo của Việt Nam (trong FTA với EU quy định hạn ngạch chỉ một lượng nhất định được hưởng ưu đãi như: 30.000 tấn/năm với gạo thơm; 25.000 tấn/năm với gạo xay xát; 30.000 tấn/năm với gạo sữa). Do đó, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng hạn ngạch để hạn chế xuất khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu, tránh việc các loại gạo giá rẻ chất lượng thấp của các nước khác trà trộn vào Việt Nam để tranh thủ ưu đãi, chúng ta áp dụng tùy theo tiềm lực cạnh tranh mặt hàng gạo trong nước, đương nhiên phải tuân theo quy tắc minh bạch, công khai và đúng quy định chung của FTA mà Việt Nam là thành viên.

  • Áp dụng các biện pháp tự vệ: Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước (Theo WTO). Cũng theo quy định của WTO biện pháp tự vệ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Do đó, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng kể cả khi tham gia TPP và FTA.

Biện pháp này áp dụng khi chúng ta là một nước nhập khẩu và chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:

Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng; Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại nói trên. Điều kiện chung là: Việc tăng đột biến lượng nhập khẩu gây thiệt hại nói trên phải là hiện tượng mà nước nhập khẩu không thể lường trước được khi đưa ra cam kết trong khuôn khổ WTO.

Chẳng hạn như để áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá Trung Quốc, Việt nam cần chứng minh sự tồn tại đồng thời của các điều kiện: Hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc tăng về số lượng; Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu phải chịu hoặc bị đe doạ đổ vỡ thị trường (market disruption); và Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu từ Trung Quốc tăng và sự đổ vỡ thị trường nói trên (Theo VCCI – Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam). Trường hợp một nước thành viên WTO đã áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá Trung Quốc theo cách thức như trên, các nước thành viên khác cũng có thể hạn chế nhập khẩu hàng hoá có xuất xứ từ Trung Quốc đó nếu chứng minh rằng biện pháp tự vệ của nước thành viên nói trên gây ra hoặc đe dọa gây ra những biến động mạnh đến luồng thương mại vào thị trường nội địa của mình.

Hiện nay Việt nam cần tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan để hoàn thiện thêm các văn bản trước như: Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam; Nghị định 150/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam; Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh;

  • Thứ ba, cần bảo hộ hợp lý hàng hóa trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu:

Để bảo hộ hàng hóa trong nước Việt nam cần sử dụng một số biện pháp như: Phân loại các hàng hóa phải chịu sự kiểm soát nhập khẩu với các mức thuế nhập khẩu khác nhau để bảo vệ sản xuất trong nước. Ngược lại, các hàng hóa xuất khẩu chỉ có một số loại thuế nhất định với nhiều quy định mang tính khuyến khích để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.

Thúc đẩy sản xuất trong nước, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa nội địa và từng bước xâm nhập thị trường khu vực và thế giới. Áp dụng mức thuế suất thấp cho các mặt hàng là đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.

Việt nam cần chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm thô sơ sang các sản phẩm công nghiệp, sản phẩm công nghệ cao. Các sản phẩm công nghệ cao sẽ tập trung vào các mặt hàng thế mạnh của đất nước để xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển để có thể đáp ứng được các hàng rào kĩ thuật của các nước. Đối với nhập khẩu, Việt nam nên ưu tiên các sản phẩm máy móc thiết bị và nguyên liệu phục vụ cho hàng xuất khẩu.

Về hệ thống thuế, với các sản phẩm mà Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ thì được miễn hoặc hưởng lãi suất thấp và ngược lại, các mặt hàng chúng ta đã sản xuất được sẽ chịu thuế suất cao.

Việt nam cần áp dụng chính sách hỗ trợ tín dụng nhằm tăng cường vốn cho các doanh nghiệp trong nước, đồng thời hỗ trợ bảo hiểm hàng hóa giúp nhà sản xuất yên tâm hơn về hàng hóa mình sản xuất ra để tự tin mở rộng thị trường ra quốc tế. Cục Xúc tiến Thương mại VIETTRADE chịu trách nhiệm tăng khả năng cạnh tranh các mặt hàng của Việt Nam trên thị trường quốc tế, bảo vệ quyền lợi kinh tế của đất nước và tìm kiếm thị trường tiềm năng cho các sản phẩm xuất khẩu.

2. Giải pháp hoàn thiện chính sách TMQT về dịch vụ

Trong những năm gần đây, chính sách thương mại quốc tế về dịch vụ đã được cải thiện liên tục ở Việt Nam. Thương mại dịch vụ nước ta bị điều chỉnh bởi gia nhập WTO vào năm 2005, đến các Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và các đối tác như Hoa Kỳ, Nhật Bản. Một trong những dấu mốc là Hiệp định thương mại song phương (BTA) giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam tham gia AFAS. Gần đây nhất, Việt Nam cũng tham gia các FTAs giữa ASEAN và các đối tác như Úc Niu – Dilân, Trung Quốc, Hàn Quốc…. Cho tới nay, trong khuôn khổ FTA giữa ASEAN và Úc, Niu – Dilân, Hiệp định về thương mại dịch vụ đã được ký kết và một số FTA với các đối tác khác đang được đàm phán.

Cho đến nay hệ thống pháp lý của Việt Nam đối với lĩnh vực dịch vụ đã phát triển nhanh và trở nên ngày càng phức tạp. Với các hiệp định quốc tế, chính sách và văn bản pháp lý phức tạp cùng điều chỉnh lĩnh vực dịch vụ nói chung và các ngành dịch vụ cụ thể, có nhiều mối lo ngại về khuôn khổ pháp lý và chính sách đối với dịch vụ Việt Nam như vấn đề Áp dụng các hiệp định quốc tế khác nhau đối với một ngành dịch vụ cụ thể, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp lý điều chỉnh lĩnh vực dịch vụ, vấn đề phối hợp trong Chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ hay vấn đề về cấp phép dịch vụ, minh bạch hóa. Một số giải pháp chính sách TMQT về dịch vụ trong thời gian tới đề xuất như sau:

Thứ nhất, Việt nam cần rà soát toàn diện các hiệp định quốc tế về dịch vụ Việt Nam như AFAS, GATS, FTA về thương mại dịch vụ và các hiệp định quốc tế khác liên quan tới dịch vụ. Vì hầu hết các thỏa thuận quốc tế này điều chỉnh thương mại dịch vụ quốc tế của Việt Nam. Do đó Chính phủ Việt Nam cần rà soát toàn diện tất cả các cam kết trong các khuôn khổ đó để hướng dẫn rõ ràng cho các doanh nghiệp và các nhà cung cấp dịch vụ khai thác các thỏa thuận quốc tế này.

Thứ hai, Việt nam cần rà soát hệ thống pháp luật về dịch vụ. Việt Nam cần tổng hợp xem xét hệ thống văn bản pháp lý thương niên đặc biệt là sau mỗi hiệp định được ký kết hoặc có chính sách ngành thay đổi để tìm ra các rào cản đối với các nhà cung cấp dịch vụ cũng như các điểm chưa phù hợp với các hiệp định quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Từ đó, cần bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành các văn bản mới cho phù hợp với quốc tế.

Thứ ba, Việt nam cần tập trung vào một số lĩnh vực dịch vụ then chốt và có lợi thế trong nước: Giai đoạn hiện nay theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 và chiến lước xuất nhập khẩu thì Việt Nam cần tập trung vào một số lĩnh vực dịch vụ quan trọng như vận tải, viễn thông, du lịch, ngân hàng và một số lĩnh vực khác..

Thứ tư, như chúng ta biết ở Việt Nam mỗi Bộ ngành chịu trách nhiệm quản lý một hoặc một số lĩnh vực dịch vụ cụ thể. Chẳng hạn như Bộ Giao thông Vận tải chịu trách nhiệm đối với dịch vụ vận tải. Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm dịch vụ Nông nghiệp… Do đó, không có Bộ ngành nào chịu trách nhiệm điều phối tất cả các lĩnh vực dịch vụ tại Việt Nam, dẫn đến tình trạng quản lý riêng lẻ, không có sự phối hợp giữa các Bộ ngành liên quan. Do đó Chính phủ cần giao cho một Bộ chịu trách nhiệm chính điều phối tất cả các ngành dịch vụ và Bộ này nên là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Việt nam cần Cải thiện cơ chế phối hợp trong Chính phủ Cần có một cơ quan quản lý để điều phối toàn bộ các ngành dịch vụ nhằm thúc đẩy sự phát triển của tất cả lĩnh vực dịch vụ phù hợp với chiến lược phát triển tổng thể của lĩnh vực dịch vụ.

Thứ năm, do chúng ta quản lý các dịch vụ riêng rẽ và độc lập với từng bộ như trên nên cơ chế cấp phép đối với từng dịch vụ riêng cụ thể khác nhau. Mặc dù chúng ta đã đưa ra cam kết trong Báo cáo gia nhập WTO về quy trình và thời hạn cấp phép nhưng đang còn nhiều mâu thuẫn. Vì vậy, Việt nam cần nghiên cứu đơn giản hóa thủ tục cấp phép. Cũng cần xây dựng các tiêu chí chung về năng lực, trình độ cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ.

Thứ sáu, hiện nay các chương trình xúc tiến thương mại của Việt Nam chủ yếu tập trung vào xuất khẩu hàng hóa, ít xúc tiến về xuất khẩu dịch vụ. Do đó Việt nam cần thực hiện các chương trình xúc tiến dịch vụ mở cửa thị trường trong thời gian tới. Cục Xúc tiến thương mại của Việt Nam (VIETRADE) lâu nay thưởng chỉ xúc tiến hàng hóa nên cần hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ. Tóm lại, các đơn vị hỗ trợ thương mại Việt Nam cần hỗ trợ dịch vụ như vấn đề về khả năng tiếp cận thị trường của một dịch vụ xuất khẩu cụ thể; xu hướng và quy mô thị trường; các yêu cầu thâm nhập thị trường; quy định, tiêu chuẩn dịch vụ và đăng ký đối với các nhà cung cấp dịch vụ; các đối thủ cạnh tranh; các đại lý, nhà phân phối tiềm năng….

3. Giải pháp hoàn thiện chính sách TMQT về đầu tư nước ngoài

  • Thứ nhất là hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư:

Hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đầu tư hiện còn một số bất cập, chồng chéo. Khi xây dựng khung pháp lý chung áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, chưa tính hết tính đặc thù của ĐTNN. Chẳng hạn như luật thuế, luật xây dựng… có quy định riêng về thủ tục đầu tư, gây chồng chéo và không thống nhất với Luật Đầu tư. Hiện nay, Việt Nam tham gia nhiều hiệp định như TPP, FTA thị trường đầu tư rộng mở nhưng lại thiếu hàng rào kỹ thuật để sàng lọc dự án và nhà đầu tư khi Việt Nam. Chẳng hạn như trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hiện nay đang còn thiếu thể chế chính sách và đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện, nhất là các văn bản hướng dẫn triển khai dự án huy động vốn theo hình thức hợp tác đối tác công – tư (PPP – Public Private Partnership). Để xử lý các bất cập về sự không thống nhất đó Việt Nam cần xem xét lại hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư từ đó làm tiền đề tạo dựng hệ thống chính sách đầu tư đồng bộ như tiếp tục hoàn thiện và sửa đổi bổ sung về luật đầu tư 2014 để phù hợp hơn. Sớm hoàn chỉnh thể chế, như thể chế triển khai các dự án theo hình thức hợp tác đối tác công – tư PPP nhằm khuyến khích đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào phát triển kết hạ tầng của đất nước.

  • Thứ hai, cần tiếp tục sửa đổi chính sách ưu đãi đãi đầu tư nước ngoài:

Hiện nay, chính sách ưu đãi đầu tư của chúng ta còn chưa phù hợp, chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư đối với những ngành, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư; chưa có tính đột phá; thiếu linh hoạt; tồn tại nhiều danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư khác nhau, thiếu nhất quán.

Ưu đãi về thuế thu nhập: Để thu hút nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam chủ trương cải cách chính sách thuế TNDN. Việt nam cần điều chỉnh giảm mức thuế suất chung theo lộ trình phù hợp để thu hút đầu tư tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đơn giản hóa chính sách ưu đãi thuế theo hướng hẹp về lĩnh vực, tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, dịch vụ chất lượng cao, lĩnh vực xã hội hóa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Bổ sung các quy định để bao quát được các hoạt động kinh tế mới phát sinh trong kinh tế thị trường hội nhậpvà phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ưu đãi thuế xuất nhập khẩu: Ưu đãi về thuế và nghĩa vụ thuế, ưu đãi về thủ tục hải quan, về quyền ra vào hệ thống kinh doanh và kho.

Ưu đãi thêm vùng kém phát triển khó khăn: Mặc dù chính phủ Việt nam đã có nhiều chính sách ưu đãi ở vùng kém phát triển, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn tuy nhiên lượng doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này vẫn rất ít, do đó chúng ta cần học hỏi Thái lan như chính sách ưu đãi cho người tiên phong, hay ưu đãi đối với cơ sở hạ tầng cần thiết và các thiết bị công cộng đối với các vùng đặc biệt này.

  • Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư:

Việt nam cần thực hiện các chương trình Xúc tiến đầu tư theo đúng định hướng tại Quyết định 03/2014/QĐ-TTg ban hành Quy chế quản lý nhà nước đối với hoạt động Xúc tiến đầu tư. Cải tiến phương thức xúc tiến đầu tư theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, theo từng ngành, lĩnh vực, khu vực và theo đối tác. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ban hành tiêu chí xây dựng kế hoạch XTĐT hàng năm, làm cơ sở cho các bộ, ngành và địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch XTĐT của mình. Chương trình xúc tiến đầu tư cần đảm bảo nguyên tắc thực hiện theo vùng và liên vùng, có trọng tâm, trọng điểm, mang tầm quốc gia, chuyên đề theo lĩnh vực chuyên sâu bám theo chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, phù hợp với định hướng ĐTNN, gắn với thị trường, đối tác cụ thể và đáp ứng sự quan tâm của nhà đầu tư. Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư để đảm bảo hoạt động xúc tiến được tốt hơn.

  • Thứ tư, cần nâng cao kết cấu hạ tầng và đào đạo nguồn nhân lực:

Mặc dù Việt Nam đã thực hiện khá hiệu quả các chính sách ưu đãi đầu tư nhưng hiện nay do cơ sở hạ tầng còn kém, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao để đáp ứng khi có nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, cần có chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng.

Để làm được điều đó Việt nam cần có chính sách tập trung đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao bao gồm: đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư và công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Việt Nam cũng cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, gắn việc đào tạo nghề tại các trường đại học, cao đẳng với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, cho phép doanh nghiệp công nghệ cao tính chi phí tài trợ cho các trường đại học vào chí phí nghiên cứu và phát triển. Chính sách về lao động, quan hệ lao động còn một số bất cập. Chính sách tiền lương hay thay đổi nhưng không có lộ trình.

Về cơ sở hạ tầng cần tăng cường sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành với các nhà tài trợ trong quá trình huy động vốn và triển khai thực hiện các dự án, tìm kiếm các nguồn vốn để triển khai các dự án theo hình thức hợp tác đối tác công – tư PPP như trên đã phân tích. Xem đây là hình thức huy động vốn tối ưu nhất trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó cần chống tham nhũng minh bạch trong đấu thầu, có những giải pháp cải tiến cơ bản trong công tác giải phóng mặt bằng để các địa phương có thể bàn giao nhanh mặt bằng cho nhà đầu tư để triển khai dự án.

4. Giải pháp hoàn thiện chính sách TMQT về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

  • Thứ nhất cần tiếp tục đàm phán về quyền sở hữu trí tuệ với các nước AEC, TPP:

Hiện nay, khi Việt Nam TPP hiệp định này quy định ở mức độ rất cao chế độ thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là các biện pháp chống hàng giả mạo nhãn hiệu và xâm phạm quyền tác giả.

Có nhiều cam kết dẫn đến việc thay đổi, bổ sung lớn đối với hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn quản lý về sở hữu trí tuệ của Việt Nam khi chúng ta gia nhập TPP. Do đó, pháp luật hiện hành của Việt Nam về sở hữu trí tuệ cần có những thay đổi bổ sung để phù hợp hơn. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta khó lòng đáp ứng được các quy định ngặt ngheo trong TPP.

Quyền SHTT trong TPP đề cập đến tất cả các nội dung như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền tác giả, bằng sáng chế, bí mật kinh doanh, đến việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ, nội dung bảo hộ được mở rộng thêm cho nhiều loại đối tượng như bảo hộ nhãn hiệu cho cả âm thanh, bảo hộ độc quyền cho đên cả mùi thơm… Vì vậy, trong TPP quyền sở hữu trí tuệ gây ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Việt nam cũng cần tiếp tục tăng cường và đẩy mạnh hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo TRIPS của WTO từ đó giúp tăng cường hoàn thiện thể chế trong TPP và FTA tới. Việt Nam cũng cần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc thực thi biện pháp hành chính, rút ngắn thời gian xét xử tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo ra niềm tin cho các chủ sở hữu quyền, giúp cá nhân tiếp tục nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ phục vụ hoạt động kinh doanh và qua đó đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Cuối cùng, Chính phủ Việt Nam cần nghiên cứu, chuẩn bị đàm phán quyền sở hữu trí tuệ theo hướng hạn chế tối đa mọi sự điều chỉnh làm mở rộng các quyền sở hữu trí tuệ, để bảo hỗ trong nước và đáp ứng dần theo lộ trình của các nước thành viên.

  • Thứ hai, tăng mức xử phạt hành chính:

Nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tình trạng xâm phạm không giới hạn hiện nay. Việt Nam cần tăng mức độ hình phạt cho các hành vi vi phạm SHTT. Chẳng hạn như điều 11 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP theo đó đối với hành vi thiết kế, chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến, đóng gói hàng hoá mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu; hành vi in dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng hình thức khác tem, nhãn, vật phẩm khác mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu; hành vi nhập khẩu hàng hoá mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, hoặc hành vi đặt hàng, giao việc thuê người khác thực hiện hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thì mức phạt tiền bằng 1,2 lần mức tiền phạt tương ứng quy định từ khoản 1 đến khoản 12, nhưng không vượt quá 250.000.000 đồng.

Kiểm chứng mức phạt này đã cao hay chưa chúng ta chỉ cần nhìn vào tình hình xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hiện nay, nó vẫn ngày càng tăng vọt vì lợi ích của việc xâm phạm lơn hơn rất nhiều so với mực phạt. Vì vậy, để giảm xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu về sở hữu trí tuệ cần phải tăng mức xử phạt cao hơn. Người vi phạm phải trả tiền theo tỷ lệ với mức độ vi phạm. Bên cạnh đó, chúng ta cần xem xét lại các hình phạt khác trong các văn bản luật đã quy định để có quyết định mức xử phạt thỏa đáng hơn. Ví như chúng ta nên bỏ quy định xử phạt cảnh cáo đối với hành vi vi phạm các đối tượng sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói riêng do các hình phạt này không có tính răn đe cao do đó người vi phạm không ngừng tăng.

  • Thứ ba, phải nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý sở hữu trí tuệ:

Các cơ quan quản lý thực thi quyền sở hữu trí tuệ cần phải được tạo điều kiện áp dụng các biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả, khắc phục sự chồng chéo, phân công rõ ràng chức năng quyền hạn của từng cơ quan theo hướng một cơ quan đầu mối chung. Do hiện nay chúng ta đang còn có nhiều cơ quan chuyên ngành khác nhau tham gia vào xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ như thanh tra các ngành, ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế. Do đó không khỏi sự chồng chéo vì vậy, cần sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi. Chẳng hạn như chúng ta có thể quy định tòa án giải quyết các vụ kiện dân sự, ủy ban nhân dân, thanh tra, quản lý thị trường quyết định xử phạt, cảnh sát kinh tế chỉ có chức năng điều tra, hải quan kiểm soát ở biên giới về sở hữu trí tuệ…

Bên cạnh đó chúng ta cũng cần quan tâm đến sự minh bạch trong trong xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan quản lý hành chính về sở hữu trí tuệ. Chúng ta cần công khai số liệu, thông tin về vi phạm sở hữu trí tuệ của các cơ quan. Hay công khai các khoản phạt hành chính, thông tin liên quan đến đối tượng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu cũng cần được công khai.

  • Thứ tư, cần thông tin tuyên truyền phổ biến pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ:

Các cơ quan ban ngành quản lý nhà nước cần cập nhật thông tin chung về sở hữu trí tuệ, nhằm giúp người dân doanh nghiệp nói nâng cao kiến thức về lĩnh vực này.

Để thực hiện chúng ta cần xây dựng các mô hình tham khảo cho việc tuyên truyền các nội dung về sở hữu trí tuệ trên Đài phát thanh và Truyền hình địa phương và cho các địa phương có các đặc điểm tương đồng. Chúng ta có thể hỗ trợ các doanh nghiệp qua các tình huống cụ thể trên thực tế nhằm góp phần giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tạo ra các kênh hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và phát triển thương hiệu, từ đó doanh nghiệp có thể học xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu của mình đồng thời không vi phạm quyền SHTT của người khác. Biện pháp này sẽ giúp các chủ thể sở hữu trí tuệ chưa chủ động thực hiện việc bảo vệ quyền và tài sản của mình mà còn mang nặng tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.

Nguồn: Nguyễn Hoàng Quy và cộng sự (2018), Chính sách thương mại quốc tế: Lý luận và thực tiễn Việt Nam hội nhập toàn cầu, NXB Thống kê.