Các bài học kinh nghiệm về chính sách thương mại quốc tế rút ra đối với Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay, các chính sách thương mại quốc tế đã được chính phủ đề ra dựa trên tình hình trong nước và quốc tế hướng tới gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị hàng hóa, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ, chú trọng nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết bị phục vụ sản xuất, mở rộng và đa dạng thị trường, thâm nhập sâu rộng vào thị trường khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các chính sách trên vào thực tiễn hoạt động, Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn và hạn chế, nhất là thị trường quốc tế ngày càng cạnh tranh khốc liệt và biến động liên tục. Chính vì thế, việc học hỏi chính sách thương mại quốc tế từ các nước bạn để rút ra bài học cho mình là rất quan trọng, giúp nước ta cải tiến hoạt động và đạt được nhiều thành công hơn nữa trong thời gian tới. Các bài học rút ra từ các nước phân tích trên đây có thể khái quát thành các bài học kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất, chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam đang theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu nên việc đa dạng hóa thị trường là vô cùng cần thiết. Rất nhiều nước hiện nay như Malaysia, Singapore, Nhật, EU, Mỹ, Trung Quốc đều đang tích cực tham gia các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới, mở rộng mối quan hệ đối tác thương mại để tìm kiếm thị trường tiềm năng cho nước mình. Nếu như trước kia, các nước phát triển là thị trường xuất khẩu chủ đạo của các quốc gia thì hiện nay, song song với thị trường này, các nước đang tích cực mở rộng thị trường ra các khu vực khác, khu vực các nước đang phát triển, thậm chí cả các nước kém phát triển để tìm hiểu, phân tích, định hướng thị trường, xác định nhu cầu của người tiêu dùng từ đó cho ra đời các sản phẩm đáp ứng được những nhu cầu đó.Từ đầu những thập niên 90 trở lại đây, Việt Nam không ngừng tìm kiếm thị trường mới và tích cực tham gia các tổ chức kinh tế lớn, chẳng hạn như ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), ASEM (Diễn đàn hợp tác kinh tế Á – Âu), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương), WTO (Tổ chức thương mại thế giới) và gần đây nhất là TPP (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương). Trong tương lai, với những tổ chức đã tham gia, nước ta cần tích cực và chủ động hơn trong các hoạt động của tổ chức để khẳng định vị trí và vai trò của mình; đồng thời tham gia thêm các tổ chức khác để mở rộng mối quan hệ của mình. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tăng cường ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương, khu vực và đa phương để có được các điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu trong nước và thu hút vốn đầu tư cũng như sự quan tâm của nước ngoài. Tính đến 8/2015 nước ta đã ký kết 10 Hiệp định thương mại tự do và đang tiếp tục đàm phán 5 Hiệp định thương mại khác tuy nhiên thực tế con số này vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của Chính phủ cũng như tiềm năng kinh tế của đất nước nên trong thời gian tới, chính phủ nước ta nói chung và cộng đồng doanh nghiệp Việt nói riêng cần nỗ lực hơn nữa để có thể hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu kết hợp với bảo hộ mậu dịch để đảm bảo quyền lợi cho các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước. Về hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu, giống như Malaysia và Thái Lan trong việc áp dụng thuyết lợi thế so sánh, Việt Nam cần khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, phát huy những ngành thế mạnh của đất nước và đặt thị trường mục tiêu là các nước phát triển để nâng cao chất lượng sản phẩm sẵn có, đồng thời áp dụng chính sách tăng cường sản phẩm mới để đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhanh nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Chúng ta cũng cần học tập Trung Quốc, Nhật trong việc áp dụng các chính sách kiểm tra giám định nghiêm ngặt các mặt hàng xuất khẩu để đảm bảo chất lượng và uy tín của sản phẩm Việt, từng bước nâng cao tính cạnh tranh trên thương trường. Đồng thời, Việt Nam cũng cần áp dụng các chính sách bảo hộ mậu dịch thông qua các biện pháp phi thuế quan hoặc biện pháp chống bán phá giá để bảo hộ các ngành sản xuất và mặt hàng trong nước. Chúng ta cũng có thể học tập các quốc gia trong khối liên minh EU trong việc áp dụng mức thuế suất thấp hoặc miễn giảm thuế đối với các sản phẩm nước ta chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ và áp dụng mức thuế cao đối với các mặt hàng trong nước đã có để ổn định tình hình sản xuất và đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp trong nước.

Thứ ba, chính phủ cần tích cực hơn nữa trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước trong tiến trình hội nhập với thị trường quốc tế. Cụ thể, chính phủ cần hết sức tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước bằng cách giảm thuế, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan hay áp dụng các chính sách hỗ trợ về vốn, tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Chẳng hạn như Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã ký văn bản hợp tác với nhiều ngân hàng các nước khác để tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng cho các doanh nghiệp nước mình, đồng thời Trung Quốc cũng tăng cường dự trữ ngoại tệ để bình ổn tỷ giá. Hay như Nhật Bản thành lập ngân hàng xuất khẩu để hỗ trợ tín dụng cho các dự án xuất khẩu có kim ngạch lớn. Đây đều là các biện pháp mà Việt Nam có thể áp dụng được để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước nhà.

Ngoài ra, có thể thấy rõ thực tế rằng mặc dù hệ thống các tổ chức xúc tiến thương mại của nước ta hiện nay khá đầy đủ nhưng trên thực tế các tổ chức này hoạt động chưa có sự gắn kết chặt chẽ và đạt hiệu quả chưa cao khi các hoạt động mới chủ yếu tập trung vào việc cung cấp thông tin và giới thiệu sản phẩm. Nhìn vào Malaysia, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm như tăng cường sự hợp tác giữa các tổ chức xúc tiến thương mại, mở thêm các văn phòng đại diện ở nước ngoài, mở thêm các dịch vụ tư vấn về đổi mới công nghệ, mẫu mã, kiểu dáng của các mặt hàng cũ, tư vấn nghiên cứu phát triển tạo ra các mặt hàng mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, nước ta cũng có thể học tập Thái Lan trong việc không hạn chế các thành phần kinh tế được phép xuất khẩu: từ các công ty nhà nước, công ty tư nhân cho đến các hợp tác xã hay nhóm nông dân. Hoặc như Singapore hiện nay đang áp dụng chính sách bảo hiểm hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài để các doanh nghiệp an tâm, tự tin đầu tư máy móc công nghệ để sản xuất nhằm cung cấp cho thị trường khu vực và thế giới. Việt Nam cũng nên ban hành chính sách này, tất nhiên chỉ đối với các sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng.

Thứ tư, Việt Nam cần cải thiện môi trường kinh tế trong nước theo hướng minh bạch, tự do, cạnh tranh công bằng giữa các công ty trong nước và nước ngoài để thu hút các đối tác trong khu vực và thế giới. Singapore hiện nay là nước đã áp dụng khá thành công hệ thống công nghệ thông tin vào thủ tục hành chính, nhất là cấp giấy phép xuất nhập khẩu điện tử, giúp đơn giản hóa thủ tục và tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Trong khi đó rất nhiều nhà đầu tư e ngại thị trường Việt Nam do thủ tục pháp lý rườm rà, mất nhiều thời gian. Chính vì thế, trong tương lai, chính phủ cần tích cực tích hợp công nghệ thông tin vào các thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp muốn tham gia thị trường. Chúng ta cũng có thể học học kinh nghiệm từ Trung Quốc và Nhật Bản trong việc đơn giản hóa hệ thống văn bản pháp luật, bỏ bớt các điểm không cần thiết, học Mỹ trong việc công bố rõ ràng các chính sách thương mại quốc tế nhằm tạo thị trường minh bạch cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư có thể hoạch định chính sách cho tổ chức của mình.

Kết chương: Xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới đang là xu hướng phổ biến đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, nhất là khi chúng ta đã trở thành thành viên của WTO. Ngày nay, các hoạt động thương mại ngày càng có phạm vi rộng lớn và chi phối hầu hết các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội của một quốc gia nên có thể thấy chính sách thương mại quốc tế đóng vai trò định hướng quan trọng đối với sự phát triển của một nền kinh tế. Từ sự phân tích chính sách thương mại của 6 quốc gia (Malaysia, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ) cùng liên minh châu Âu EU trên đây, có thể thấy tùy theo từng điều kiện, giai đoạn và định hướng của từng nước mà có những chính sách thương mại quốc tế khác nhau, nhưng nhìn chung đều chịu sự chi phối của hai xu hướng cơ bản là tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch.

Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển trong khu vực ASEAN, khu vực kinh tế được đánh giá là năng động và có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai, chính sách thương mại quốc tế càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Từ những thành công và hạn chế trong chính sách của các nước trên đây, những bài học có thể rút ra cho Việt Nam là cần (1) đa dạng hóa thị trường, (2) đẩy mạnh xuất khẩu kết hợp với bảo hộ mậu dịch, (3) tăng cường hỗ trợ từ chính phủ đối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất khẩu trong nước và (4) cải thiện môi trường kinh tế trong nước. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng chính phủ Việt Nam cần tỷnh táo và linh hoạt trong việc áp dụng các mô hình chính sách kinh tế của nước bạn, làm sao để vừa phù hợp với điều kiện thực tế của nước mình, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là phải đảm bảo luật pháp của quốc gia và luật lệ của các tổ chức quốc tế mà chúng đã và đang tham gia.

Nguồn: Nguyễn Hoàng Quy và cộng sự (2018), Chính sách thương mại quốc tế: Lý luận và thực tiễn Việt Nam hội nhập toàn cầu, NXB Thống kê.