Các trường hợp xác định giá và lãi suất cùa trái phiếu đều dựa vào giả định là các nhà đầu tư mua hoặc bán trái phiếu chính xác vào ngày thanh toán tiền lãi trái phiếu, do đó việc tính giá trái phiếu chỉ chính xác
khi trái phiếu được giao dịch vào ngày thanh toán lãi trái phiếu.
Tuy nhiên, khi mô hình lãi nhập gốc 6 tháng một lần được sử dụng, phiên bản khác của mô hình tính giá trái phiếu và lãi suất được sử dụng cho những giao dịch vào ngày không thanh toán lãi. Mô hình định giá cơ bản của trái phiếu phải mở rộng thêm một bước nữa bởi vì giá trị của trái phiếu được giao dịch vào tháng Y, năm X, còn cách xa trước khi đến ngày đáo hạn của trái phiếu được tính bằng cách ngoại suy giá trị trái phiếu (giá và lãi suất) cho tháng trước và tháng sau ngày giao dịch. Do đó, việc định giá trái phiếu nên tính kỳ hạn là tháng hom là năm hoặc khoảng thời gian lãi nhập gốc nữa năm 1 lần.
Trong việc tính toán giá trị cho trái phiếu vào ngày không thanh toán lãi, việc xem xét khái niệm về lãi tích lũy cũng rất cần thiết. Bởi vì tiền lãi thanh toán trên trái phiếu, được trả 6 tháng một lần, là một cam kết theo hợp đồng của người phát hành trái phiếu, nhà đầu tư trái phiếu có quyền nhận một tỷ lệ của tiền lãi thanh toán theo sáu tháng một lần nếu giữ trái phiếu trong một khoảng thời gian nào đó của kỳ hạn 6 tháng.
Ví dụ 6.14: Công ty XYZ phát hành một trái phiếu có lãi suất cố định 8%/năm, mệnh giá 1.000.000 đồng trả lãi 40.000 đồng cho mỗi 6 tháng một lần. Hãy tính lãi tích lũy của trái phiếu và giá trị của trái phiếu nếu nhà đầu tư bán trái phiếu 2 tháng sau đợt thanh toán lãi trước?
Nhà đầu tư bán trái phiếu 2 tháng sau đợt thanh toán lãi trước, như vậy, nhà đầu tư đã giữ trái phiếu trong 1/3 khoảng thời gian của kỳ hạn 6 tháng và có quyền nhận 1/3 của 40.000 đồng. Đây được gọi là lãi tích lũy của trái phiếu. Giá trị mà nhà đầu tư nhận được là mức giá bán trái phiếu cộng với lãi tích lũy là 13.333 đồng.
30 Th12 2020
31 Th12 2020
30 Th12 2020
31 Th12 2020
31 Th12 2020
31 Th12 2020