Các phương thức kinh doanh dịch vụ quốc tế

1. Các hình thức kinh doanh dịch vụ quốc tế

Trước đây thì các dịch vụ được thực hiện bởi các nhà cung cấp địa phưong. Tuy nhiên, ngày nay các dịch vụ đang tham gia vào thị trường thế giới với nhiều hình thức khác, đó là:

  • Bán các dịch vụ từ các thành viên của quốc gia này cho các thành viên của quốc gia khác. Đây tuy không phải là một biện pháp phổ biến nhất, song tỷ lệ lại đang tăng lên.
  • Thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài, trong nhiều lĩnh vực là một biện pháp tưong đối đặc thù, chẳng hạn như việc một chi nhánh ngân hàng nước ngoài bán lẻ các dịch vụ ngân hàng ở một quốc gia thứ hai.
  • Trong thực tế, đầu tư trực tiếp đang là phưong tiện so cấp của việc tham gia vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ ở các thị trường. Nó vẫn và sẽ còn là phưong tiện chủ yếu cho việc chuyển các dịch vụ ra nước ngoài.

Vì các số liệu thông tin và chất lượng của các dịch vụ rất khó đánh giá và đo lường thông qua các chỉ tiêu cụ thể, nên khi lựa chọn thị trường và đối tác kinh doanh xuất hoặc nhập khẩu dịch vụ cần phải dựa vào uy tín truyền thống của các tố chức, của hãng, sở trường kinh doanh của họ, tiềm năng, khả năng về các dịch vụ có cung cấp hoặc tiêu thụ…

Điều quan trọng là    cần tìm hiểu, xem xét mức độ can thiệp của chính phủ đối với kinh doanh dịch vụ   quốc tế, khuyến khích hay hạn chế  sự xâm nhập của  các dịch vụ nước ngoài; hoặc khuyến khích hay hạn chế việc xuất, nhập khẩu dịch vụ trong nước ra thị trường thế giới…

Gắn liền với mức độ can thiệp này là các chính sách kinh tế của nhà nước hay chính phủ đối với các hoạt động kinh doanh này, tức là chính phủ có thể tạo ra môi trường, hành lang và điều kiện thuận lợi cho hoạt kinh doanh dịch vụ quốc tế mở rộng và phát triển hay không.

Kinh doanh dịch vụ quốc tế là hình thức phục vụ đến tận khách hàng và thoả mãn các yêu cầu của họ. Do đó, việc xác định giá cả đối với các hoạt động dịch vụ quốc tế đòi hỏi phải luôn có tinh thần “mềm dẻo”, “linh hoạt”. Do các dịch vụ không tích trữ, dự trữ được, nên phải có sự thích ứng lớn đối với sự thay đổi của cầu và do đó phải duy trì sự “mềm mỏng” trong việc xây dựng giá cả. Đồng thời, sự mềm mỏng đó phải được cân nhắc thông qua mong muốn của cả người bán và người mua dịch vụ để mở rộng các mối quan hệ giữa họ. Tính chất vô hình của hoạt động dịch vụ đã làm cho hoạt động cung cấp tài chính trở nên khó khăn hơn. Thông thường, ngay cả các quốc gia có tiềm lực tài chính và có kinh nghiệm quốc tế dày dạn cũng không hoàn toàn sẵn sàng tài trợ tài chính cho các hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế so với tài trợ cho kinh doanh sản phẩm hữu hình.

Từ những thập kỷ 80 của thế kỷ 20, dịch vụ chiếm 55% trong tổng sản phẩm của các nước phát triển và đang phát triển. Cho đến hiện nay, tỷ trọng đã tăng lên tới 65%, phần lớn là sự tăng trưởng của các ngành dịch vụ tham gia vào thương mại quốc tế. Tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ ảnh hưởng sâu sắc đến cả các nước phát triển và nước đang phát triển.

Có thể liệt kê một vài yếu tố ảnh hưởng tới buôn bán và các dịch vụ quốc tế, đó là:

  • Sự tăng cầu về dịch vụ của người tiêu dùng (do thu nhập tăng)
  • Sự tăng cầu ở các hãng về dịch vụ
  • Việc thiểu hoá và việc bảo tồn nguyên vật liệu cũng là nguyên nhân khiến cho tỷ trọng các ngành dịch vụ tăng lên biểu hiện ở đầu ra công nghiệp.
  • Thay đổi kỹ thuật đã nuôi dưỡng khả năng tồn tại và khả năng tiếp xúc với nhau của các hãng kinh doanh dịch vụ cách xa nhau trên thế giới.
  • Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
  • Việc xoá bỏ các rào chắn, các quy định cũng tạo điều kiện cho các dịch vụ phát triển ở tầm quốc tế.

Có thể nói, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã trở thành chìa khoá cho sự phát triển các ngành dịch vụ trên phạm vi quốc tế này.

Ảnh hưởng của các yếu tố trên tới kinh doanh các dịch vụ biểu hiện:

  • Sự thay đổi kỹ thuật làm gia tăng số lượng các dịch vụ kinh doanh, giảm giá thành các dịch vụ với quy mô lớn và cho phép sản xuất từ khoảng cách xa.
  • Việc tiêu chuẩn hoá các dịch vụ được cung cấp.
  • Các cơ hội cho việc đặc thù hoá các dịch vụ được cải tạo; chẳng hạn thông qua việc ký kết hợp đồng với một hãng lập trình nước ngoài để thiết kế hệ thống kế toán đặc thù.
  • Cuộc cách mạng thông tin là trung tâm của toàn bộ quá trình, cụ thể là dưới dạng máy tính hoá và việc trao đổi thông tin qua mạng. Sự thay đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực máy tính và sự truyền bá nhanh chóng của nó đã và đang cách mạng hoá tốc độ và khối lượng của chuyển đổi thông tin nhiều lần trong cùng một thế hệ.

2. Những khó khăn đối với việc kinh doanh các dịch vụ quốc tế

Tuy các rào chắn kỹ thuật và chính sách đang giảm đối với các dịch vụ song trên thực tế, so với số luợng và hình thức của các rào chắn dịch vụ nhu hiện nay, thì các rào chắn dịch vụ vẫn còn cao hon nhiều so với các rào chắn hàng hoá thông thuòng khác. Các rào chắn này tồn tại duới các dạng:

  • Kiểm soát trực tiếp di chuyển dịch vụ qua biên giới.
  • Hạn chế các dự án đầu tu liên quan đến dịch vụ.
  • Không khuyến khích thuong mại dịch vụ thông qua các thủ tục hành chính, thuế khoá và các tiêu chuẳn sở hữu.

Cả hai đối tuợng, các hãng cung cấp dịch vụ và các khách hàng tiềm năng, đều đòi hỏi sự tự do hoá thuong mại loại dịch vụ này. Một ví dụ cụ thể là các dịch vụ tài chính. Doanh số bán các dịch vụ tài chính, nhu việc bán các chứng khoán, điều tra nghiên cứu cho khách hàng… tăng lên cùng với sự tự do hoá các dòng chảy tài chính ở các nuớc phát triển và đang phát triển. Phần lớn các truòng hợp, việc buôn bán các dịch vụ đi kèm với đầu tu trực tiếp của các thể chế tài chính quốc tế.

  • Khó khăn trong việc thu thập số liệu và thông tin.

Các số liệu trong buôn bán dịch vụ quốc tế hoàn toàn nghèo nàn, vì các giao dịch về dịch vụ thuòng có tính chất vô hình, cả về mặt thống kê lẫn về mặt vật chất. Ví dụ, một chuyến đi công du hải ngoại của một tu vấn gia vì mục tiêu kinh doanh khó có thể theo dõi và đo luờng.

Việc thu thập thông tin về kinh doanh dịch vụ tiến hành khó khăn hon nhiều vì các hoạt động dịch vụ có tính chất vô hình và hon nữa việc đo luòng vừa mô tả khó khăn hon nhiều so với các sản phẩm. Do vậy, sự hiểu biết không đầy đủ về thông tin đã gây khó khăn cho các quốc gia, cả trong việc đánh giá và điều chỉnh buôn bán các dịch vụ.

  • Sự không khuyến khích của chính phủ đối với việc cung cấp và tiêu thụ các dịch vụ quốc tế.

Các trở ngại đối với việc buôn bán dịch vụ ở nuớc ngoài gồm hai loại hình co bản: các hàng rào hạn chế xâm nhập và những khó khăn của việc cung cấp dịch vụ ở nuớc ngoài. Các hàng rào hạn chế xâm nhập thuờng xem là yếu tố đảm bảo “an ninh quốc gia”, “an ninh kinh tế”; chính phủ thuòng đua ra các biện pháp, chính sách để bảo hộ mạnh mẽ đối với hoạt động dịch vụ trong nuớc, các quy định và luật lệ dựa vào truyền thống có thế ngăn cản sự đổi mới; các chính phủ theo đuổi các mục tiêu xã hội thông qua các quy định riêng của quốc gia, các quy định bắt buộc của các nhà cung cấp dịch vụ nuớc ngoài phải bỏ ra một khoản chi phí lớn hon so với các nhà cạnh tranh nội địa; không cho phép tự do cạnh tranh trong một số lĩnh vực dịch vụ…

3. Một số dịch vụ quốc tế điển hình

Dịch vụ là một lĩnh vực đa dạng và phong phú. Theo đà phát triển của các quan hệ quốc tế, các hình thức kinh doanh dịch vụ kinh doanh quốc tế ngày càng đuợc mở rộng và đem lại hiệu quả cao đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở đây, chúng ta chỉ đi vào nghiên cứu một số loại dịch vụ và kinh doanh dịch vụ quốc tế điển hình.

3.1. Dịch vụ liên quan đến thông tin

Các dịch vụ liên quan đến thông tin là hạng mục năng động nhất của dịch vụ kinh doanh, bao gồm buu chính viễn thông, phát triển phần mềm, các dịch vụ máy tính, và sử lý dữ liệu. Chỉ tiêu của thế giới cho các dịch vụ thông tin khoảng 235 tỷ USD vào năm 1995. Xu thế này phản ánh các tiến bộ trong công nghệ thông tin và các ứng dụng của nó.

3.2.Các dịch vụ tài chính quốc tế

Sự phát triển của dịch vụ thông tin đã kích thích sự phát triển của các dịch vụ kinh doanh khác, trong đó có các dịch vụ tài chính. Các dịch vụ tài chính phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác và xử lý dữ liệu (các thông tin). Các dịch vụ tài chính bao gồm: ngân hàng, bảo hiểm và kinh doanh ngoại hối.

3.3. Các dịch vụ bảo hiểm quốc te

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như hoạt động xã hội thường xảy ra những rủi ro do nhiều nguyên nhân khách quan ngoài sự mong muốn của con người. Bảo hiểm xuất hiện nhằm khắc phục những rủi ro và chia đều rủi do cho những người đồng ý tham gia bảo hiểm. Vì vậy, có thể hiểu dịch vụ bảo hiểm là sự cam kết của người bảo hiểm bồi thường với người được bảo hiểm về những mất mát, thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do rủi ro gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng đó và nộp khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Sau khi mua bảo hiểm, nếu xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường. Tác dụng của bảo hiểm là bù đắp về tài chính, nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro, chứ không ngăn chăn được rủi ro đã xảy ra.

Trong thực tế có nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau nhưng có thể chia làm hai loại chính là bảo hiểm cho con người và bảo hiểm hàng hoá, tài sản. Trong kinh doanh dịch vụ quốc tế cũng bao gồm hai loại hình này nhưng      nó khác về  đối                    tượng bảo   hiểm là           những người              nước ngoài hoặc hàng hoá xuất nhập khẩu, tài sản nước ngoài, phí thu bằng ngoại tệ. Trong dịch vụ bảo hiểm quốc tế, dịch vụ bảo hiểm trong kinh doanh ngoại thưong chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nó bao gồm: bảo hiểm hàng hoá trong khi vận chuyển xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tầu…

Ngày nay bảo hiểm là dịch vụ quan trọng bậc nhất trong những hoạt động dịch vụ, là một hoạt động kinh doanh rộng lớn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, đây chính là nét tưong tự với dịch vụ tư vấn.

3.4.Dịch vụ tư vấn quốc tế

Kinh doanh quốc tế là hoạt động phức tạp chứa đựng nhiều rủi ro. Điều đó được quyết định bởi sự biến động đa dạng và thường xuyên của môi trường kinh doanh quốc tế. Vì vậy, muốn kinh doanh được an toàn và diễn ra một cách bình thường, trôi chảy thì ngoài khả năng trình độ, nghiệp vụ kinh doanh của các công ty, còn cần thiết phải tham khảo ý kiến về kinh doanh thông qua các hoạt động dịch vụ tư vấn của các chuyên gia hoặc các tổ chức chuyên làm dịch vụ tư vấn về ngoại thưong, về đầu tư… cùng với sự mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, ngày nay các tư vấn gia đang gia tăng hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn trên thị trường thế giới. Trong hoạt động dịch vụ tư vấn về thưong mại quốc tế cũng có nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm:

  • Dịch vụ pháp lý kinh doanh trong thưong mại quốc tế. Dịch vụ tư vấn pháp lý trong kinh doanh thưong mại quốc tế là việc cung cấp những thông tin hoặc những lòi khuyên trong quá trình soạn thảo, ký kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết chanh chấp giữa những nhà kinh doanh trên co sở luật pháp trong nước và quốc tế.
  • Dịch vụ tư vấn trong xuất nhập khẩu bí quyết kỹ thuật và sáng chế. Xuất nhập khẩu máy móc thiết bị toàn bộ thường đi kèm với xuất nhập khẩu bí quyết kỹ thuật và sáng chế. Bí quyết kỹ thuật là những kinh nghiệm kiến thức kỹ thuật riêng biệt để sản xuất ra những sản phẩm nhất định hoặc để áp dụng cho một quy trình công nghệ nào đó một cách tốt nhất, nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
  • Dịch vụ Marketing. Hoạt động Marketing và nghiên cứu thị trường là hoạt động quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Hoạt động này có nhiệm vụ phải chỉ ra chiến lược kinh doanh, chiến lược giá cả, chiến lược cung cấp phân phối, quảng cáo khuyếch trương sản phẩm và phải trả lời tốt các câu hỏi: Buôn bán với ai? Mặt hàng nào? Thị trường nào? Giá cả bao nhiêu? Vào thời điếm nào? Muốn vậy, nhà kinh doanh phải dựa trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ các nhân tố tác động để rút ra những kết luận cần thiết.

3.5. Dịch vụ du lịch quốc te

Xuất phát từ nhu cầu của con người muốn được thăm danh lam thắng cảnh, nghỉ ngơi nhằm thoả mãn tính hiếu kỳ, phục hồi sức khoẻ và tinh thần của con người. Đây là một nhu cầu chính đáng và phát triển cùng với sự tăng trưởng kinh tế, với sự phát triển của khoa học – công nghệ và tiến bộ xã hội. Khi thu nhập và mức sống của người lao động càng được nâng cao, thì nhu cầu về du lịch càng lớn. Chính việc đáp ứng các nhu cầu đi lại, nghỉ ngơi, tham quan, tìm hiểu… của du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài đến thăm quan đã làm xuất hiện và phát triển một hoạt động kinh doanh mới, kinh doanh du lịch quốc tế.

Là một ngành kinh tế quan trọng, kinh doanh du lịch quốc tế đã góp phần thu ngoại tệ rất lớn cho quốc gia. Mỗi du khách ngoại quốc đang đóng góp một khoản ngoại tệ rất lớn cho các công ty kinh doanh du lịch. Đồng thời, cũng góp phần làm tăng sự hiểu biết lẫn nhau về kinh tế, văn hoá, tập quán, phong tục… của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Chính vì vậy, nhiều nước đã coi du lịch quốc tế là một ngành kinh tế quan trọng. Thông qua phát triển du lịch, một loạt các loại dịch vụ khác ra đời và phát triển, như dịch vụ hàng không, dịch vụ vận chuyển khách quốc tế trong nước dịch vụ thông tin quốc tế, dịch vụ hướng dẫn tham quan du lịch… các loại hoạt động này đang mang lại nhiều lợi ích cho cả khách du lịch và cho những nhà kinh doanh du lịch.

Đối với nền kinh tế của một quốc gia, du lịch quốc tế có ý nghĩa to lớn thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây:

  • Ngành du lịch quốc tế thực hiện “xuất khẩu tại chỗ” và “xuất khẩu vô hình” mà không mất đi các loại sản phẩm độc đáo này.
  • Du lịch quốc tế góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đưa lại các khoản thu nhập đáng kể cho nhiều tầng lớp nhân dân địa phương.

Sự phát triển du lịch tạo điều kiện mở rộng quy mô của các ngành kinh tế-xã hội khác như lương thực, thực phẩm, giao thông vận tải, văn hoá, thể thao… điều đó cho phép thu hút và sử dụng tốt nguồn lực lao động của quốc gia đó.

Ngày nay kinh doanh du lịch quốc tế là một hoạt động đóng vai trò ngày càng to lớn trong buôn bán dịch vụ của các quốc gia. Nó tạo ra nguồn thu lớn vì mỗi du khách tham quan du lịch đã đóng góp một khoản ngoại tệ rất lớn cho hoạt động kinh doanh dịch vụ của các công ty. Vì vậy, trong nhiều quốc gia, các dịch vụ du lịch đang trở thành một hoạt động xuất khẩu chủ yếu và do đó đang thu hút một khối lượng lao động rất lớn vào lĩnh vực này. Để nâng hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế, các công ty phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên trường quốc tế, phải đa dạng hoá các thể loại du lịch và các hình thức phục vụ, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá của du lịch.

3.6. Dịch vụ vận tải quốc tế

Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách giữa hai hay nhiều nước. Nói một cách khái quát, vận tải quốc tế là việc chuyên chở được thực hiện vượt khỏi biên giới của quốc gia. Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế, gắn liền với sự phát triển của phân công lao động quốc tế và buôn bán trao đổi quốc gia. Trình độ phát triển của các phuơng tiện vận tải cùng với việc tổ chức hệ thống vận tải thống nhất của từng nuớc hay từng nhóm, có ảnh huởng rất lớn đối với sự phát triển của vận tải trên phạm vi thế giới. Sự phát triển của vận tải quốc tế và kinh doanh trên lĩnh vực này cho phép các công ty riêng, các quốc gia nói chung tăng nguồn thu ngoại tệ, thông qua vận chuyển thuê và tiết kiệm chi ngoại tệ. Với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ cho phép con nguôi sử dụng đa dạng các phuơng thức vận tải vào hoạt động vận tải quốc tế. Cụ thể là vận tải đuờng biển, đuờng sắt, đuờng bộ, đuờng ống, đuờng hàng không.

Trong số đó, vận tải đuờng sắt phù hợp với việc vận chuyển tất cả các loại hàng hoá có khối luợng lớn. Vận tải đuờng sắt áp dụng cho việc vận chuyển hàng hoá đuờng dài hoặc khoảng cách trung bình, là kinh tế nhất. Điều đó có nghĩa là, nó thích hợp với việc vận chuyển liên vận trong phạm vi một châu lục hay liên châu lục.

Nhu vậy, mỗi phuơng thức vận tải có uu nhuợc điểm khác nhau, nên tuỳ thuộc vào mục đích kinh doanh và các hoạt động kinh doanh cụ thể của mình, mà các công ty kinh doanh quyết định lựa chọn các phuơng thức vận tải phù hợp để đạt hiệu quả kinh doanh cao. Điều đặc biệt quan tâm là khi ký kết dịch vụ vận chuyển quốc tế cần phải tính đến các yếu tố về luồng đuòng vận chuyển, các phuong tiện vận tải của công ty, đặc điểm nhu cầu khách hàng, để tổ chức kết hợp tốt nhất các phuong thức, phuong tiện vận tải đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất.

3.7. Dịch vụ xuất nhập khẩu sức lao động

Do sự phát triển không đều về dân cu, về kinh tế đã dẫn đến một tình trạng là có quốc gia dồi dào lao động, có quốc gia thiếu lao động; từ đó có hiện tuợng di chuyển sức lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác và hình thành nên thị truòng sức lao động quốc tế. Xuất khẩu sức lao động là nguôi lao động bán sức lao động của mình (cả lao động chân tay và lao động trí óc) cho quốc gia khác.

Truông hợp nguời lao động bán sức lao động của mình ngay trong nuớc cho các doanh nghiệp nuớc ngoài (xí nghiệp liên doanh với nuớc ngoài, xí nghiệp 100% vốn nuớc ngoài…) đuợc gọi là xuất khẩu tại chỗ sức lao động. Còn khi nguời lao động làm thuê ở các nuớc khác, thì gọi là xuất khẩu trực tiếp sức lao động. Xuất khẩu trực tiếp sức lao động là di chuyển lao động ra nuớc ngoài trên co sở tự phát (không có tổ chức, không có kế hoạch) hoặc tự giác có tổ chức, có thể xuất cu có thời hạn hoặc vĩnh viễn.

Thị truờng sức lao động thế giới là một lĩnh vực đặc biệt của nền kinh tế thế giới, noi diễn ra quá trình trao đổi, mua bán một thứ hàng hoá “đặc biệt” – hàng hoá sức lao động giữa các nuớc. Xu huớng phát triển của thị truờng này ngày càng tăng lên, do vậy kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu sức lao động cũng ngày càng gia tăng.