Khái niệm và mô hình công ty chứng khoán

1. Khái niệm

Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Ủy ban Chứng  khoán Nhà nước (UBCKNN)  cấp.

2. Mô hình tổ chức và nguyên tắc hoạt động

Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình phổ biến về công ty chứng khoán sau:

2.1. Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh

Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không đ – ược tham gia kinh doanh chứng khoán.  Mô hình này đ ược áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật, Hàn Quốc.

2.1.1.Ưu đim

– Hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

– Tạo điều kiện cho  các công ty chứng khoán đi vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển.

2.1.2.Hn chế

Khả năng san bằng rủi ro trong kinh doanh bị hạn chế

2.2. Mô hình công ty chứng khoán đa năng

Theo mô hình này, công ty chứng khoán đ ược tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức sau:

–  Công ty đa năng một phần:

Theo mô hình này, các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ.

–  Công ty đa năng toàn phần:

Các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác.

2.2.1.Ưu đim

–  Các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong  hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hoá đầu tư.

–  Tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động tài chính.

–  Tận dụng được lợi thế của mình: vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án.

2.2.2.Hn chế

–  Ngân hàng vừa là tổ chức tín dụng, vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán nên khả năng chuyên môn không sâu như các công ty chứng khoán chuyên doanh. Điều này sẽ làm cho thị trường chứng khoán kém phát triển vì hoạt động chủ yếu của hệ thống ngân hàng là dùng vốn để cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán, do đó ngân hàng thường quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng hơn là lĩnh vực chứng khoán.

– Do khó tách bạch được hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường. Và khi đó, các biến động trên thị tr ường chứng khoán sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ, gây tác động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Ngược lại, trong trường hợp thị trường tiền tệ biến động có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng.