Hoạch định năng lực sản xuất dài hạn

Hoạch định phương tiện sản xuất bao gồm việc xác định năng lực sản xuất dài hạn cần có, thời điểm cần bổ sung năng lực sản xuất, vị trí bố trí nhà máy. Hoạch định phương tiện sản xuất được thiết kế dựa trên cơ sở kế hoạch chiến lược dài hạn của công ty, các kế hoạch này là cơ sở cho việc xác định sản phẩm cần sản xuất trong từng giai đoạn. Điều này rất quan trọng bởi vì:

Vốn đầu tư vào máy móc thiết bị, khoa học kỹ thuật, đất đai và nhà xưởng cho sản xuất là rất lớn. Khi một công ty đã đầu tư rất nhiều vốn cho phương tiện sản xuất, thì phải có một chiến lược trong dài hạn. Vì thế quyết định này phải được dựa trên những cơ sở nghiên cứu sâu rộng và được hình thành ở mức độ cao nhất của công ty.

Chiến lược dài hạn được thể hiện kế hoạch về phương tiện sản xuất của công ty. Những vấn đề như: các loại sản phẩm gì cần được sản xuất, thị trường nào tiêu thụ sản phẩm đó, các công nghệ nào được sử dụng phản ánh kế hoạch chiến lược của công ty. Các vấn đề này cũng phải giải quyết ở cấp quản trị cao nhất.

Hiệu quả hoạt động phụ thuộc vào năng lực của phương tiện sản xuất. Các chi phí bảo trì, tính thuận lợi của lịch trình, hiệu quả kinh tế của qui mô là những nhân tố chịu ảnh hưởng của năng lực phương tiện máy móc thiết bị.

Năng lực sản xuất trở thành ràng buộc trong nhiều quyết định của quản trị sản xuất và tác nghiệp. Số lượng sản phẩm được sản xuất là bao nhiêu thì có hiệu quả trong giai đoạn sản xuất cụ thể nào đó, là nhân tố giới hạn trong hoạch định sản xuất ngắn hạn.

Các quyết định về hoạch định năng lực sản xuất dài hạn thường bao gồm các hoạt động sau:

– Ước lượng năng lực cho máy móc thiết bị hiện tại.

– Dự báo nhu cầu về năng lực sản xuất dài hạn trong tương lai cho tất cả sản phẩm hoặc dịch vụ.

– Chỉ rõ và phân tích nguồn cung cấp để đáp ứng nhu cầu năng lực sản xuất trong tương lai.

– Lựa chọn nguồn năng lực sản xuất thích hợp.

1. Định nghĩa, đo lường và dự báo năng lực sản xuất thực tế:

1.1 Định nghĩa năng lực sản xuất thực tế:

Năng lực sản xuất thực tế tối đa là sản lượng đạt được thông qua các ca làm việc bình thường trong ngày hay trong tuần, khi đó phương tiện sản xuất không đạt được hiệu quả cao nhất. Nói chung, năng lực sản xuất là tỷ lệ sản xuất tối đa của một đơn vị sản xuất kinh doanh.

Các nhân tố ảnh hưởng năng lực sản xuất bao gồm:

  • Các biến đổi hàng ngày như sự vắng mặt của công nhân, sự hỏng hóc của máy móc thiết bị, các ngày nghỉ, sự trễ nải trong việc cung ứng nguyên vật liệu làm cho kết quả sản xuất của các phương tiện trở nên không chắc chắn.
  • Tỷ lệ sản xuất các loại sản phẩm khác nhau và các dịch vụ của các loại sản phẩm này cũng khác nhau. Vì thế sự pha trộn số lượng sản phẩm cần được sản xuất phải được tính đến khi hoạch định năng lực của phương tiện sản xuất.
  • Mức độ sản xuất là bao nhiêu? Khả năng tối đa, năng lực sản xuất dựa trên lịch làm việc là bao nhiêu ngày trong tuần, năng lực sản xuất thực tế dựa trên việc sử dụng phương tiện sản xuất hiện có mà không cần sử dụng đến các máy móc thiết bị dự phòng…

1.2 Đo lường năng suất:

Đối với những công ty chỉ sản xuất ra một hoặc một vài sản phẩm tương tự nhau thì việc đo lường năng lực sản xuất đơn giản, như số lượng xe máy sản xuất ra hàng tháng, số tấn than sản xuất ra hàng tháng… Khi có sự pha trộn nhiều loại sản phẩm khác nhau thì chúng ta thấy có vấn đề trong việc đo lường năng lực sản xuất. Khi đó bắt buộc các nhà quản lý phải xây dựng một đơn vị đo lường tổng hợp. Đơn vị đo lường này cho phép chuyển đổi năng lực sản xuất của nhiều sản phẩm khác nhau thành đơn vị đo lường năng lực sản xuất tổng hợp. Ví dụ: tấn/giờ, doanh số bán/tháng.

Trong hoạch định năng lực sản xuất đối với ngành dịch vụ, đơn vị đo lường khó chính xác và thường xác định dựa vào đầu vào được sử dụng. Ví dụ: ngành hàng không sử dụng đơn vị đo lường là hành khách-kilomet/tháng, ở những bệnh viện tính số bệnh nhân/tháng, ở những đơn vị dịch vụ kỹ thuật người ta sử dụng số giờ lao động của công nhân/tháng.

1.3 Dự báo nhu cầu của năng lực sản xuất:

Khi nói đến năng lực sản xuất có nghĩa là phải tạo ra phương tiện sản xuất – đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, nhân sự và các tiện ích khác. Công tác hoạch định, mua sắm, xây dựng và huấn luyện cần thiết đối với phương tiện sản xuất mới có thể mất từ 3 – 7 năm, và những phương tiện như thế có thể tồn tại từ 10 – 20 năm. Dự báo nhu cầu cho sản phẩm hoặc dịch vụ phải được tiến hành cho 10 – 30 năm. Dự báo dài hạn như vậy thì rất khó khăn, vì có nhiều thay đổi của nền kinh tế, thay đổi trong sở thích của khách hàng, thay đổi về khoa học kỹ thuật, thay đổi trong các qui định của nhà nước, những điều kiện về chính trị hay một sự phát triển khác xảy ra.

Dự báo năng lực sản xuất cho sản phẩm hoặc dịch vụ có liên quan đến các bước sau:

– Ước lượng chung cho một loại sản phẩm hay dịch vụ riêng biệt.

– Thị phần (phần trăm của tổng nhu cầu) cho từng công ty được ước lượng.

– Thị phần được nhân với tổng nhu cầu để đạt được số dự báo nhu cầu cho từng công ty.

– Nhu cầu cho sản phẩm hoặc dịch vụ được chuyển thành nhu cầu về năng lực sản xuất. Sau khi công ty đã đạt được con số ước lượng tốt nhất đối với nhu cầu sản phẩm dịch vụ, chúng ta phải xác định năng lực sản xuất cho từng loại sản phẩm hoặc dịch vụ.

Có nhiều lý do tại sao năng lực sản xuất không nhất thiết phải bằng với số lượng nhu cầu sản phẩm hay dịch vụ được dự báo:

Nguồn vốn không đầy đủ và các nguồn lực khác không phải lúc nào cũng luôn sẵn có một cách hiệu quả để thỏa mãn tất cả các nhu cầu.

Vì tính không chắc chắn của dự báo và nhu cầu liên kết năng lực sản xuất với chiến lược tác nghiệp cho sự ưu tiên cạnh tranh. Một năng lực sản xuất đệm cần được thiết lập, là lượng năng lực sản xuất thêm vào:

– Năng lực sản xuất tăng thêm trong trường hợp nhu cầu về sản phẩm hoặc dịch vụ tăng.

– Khả năng đáp ứng nhu cầu vào đỉnh mùa vụ.

– Chi phí sản xuất thấp, nếu phương tiện sản xuất càng gần với năng lực sản xuất thì chi phí sẽ cao hơn.

– Tính linh hoạt về sản xuất và khối lượng sản phẩm sản xuất ra; việc đáp ứng theo nhu cầu khách hàng đối với từng loại sản phẩm khác nhau và khối lượng sản xuất khác nhau thì có thể nhờ vào năng lực sản xuất tăng thêm.

– Chất lượng sản phẩm hay dịch vụ được cải thiện; phương tiện sản xuất hoạt động càng gần với năng lực sản xuất thì thường có chất lượng không cao.

Ngoài ra, cũng cần xem xét đến năng lực sản xuất của các nhà cạnh tranh có thể thêm vào. Nếu như các nhà cạnh tranh tăng cường năng lực sản xuất làm cho hiện tượng dư thừa trong ngành xảy ra, công ty nên xem xét lại năng lực sản xuất của mình.

1.4 Cách thức thay đổi năng lực sản xuất:

Khi năng lực sản xuất dài hạn được ước lượng thông qua dự báo, các công ty có thể vấp phải trình trạng không đủ hay dư thừa năng lực sản xuất. Bảng 4-1 liệt kê một số cách thức mà nhà quản lý có thể sử dụng cho việc thay đổi năng lực sản xuất trong dài hạn.


2. Phân tích cây quyết định về hoạch định năng lực sản xuất:

Các quyết định về hoạch định năng lực sản xuất có thể được phân tích bằng nhiều phương pháp khác nhau như: phân tích điểm hòa vốn, thường được sử dụng để so sánh hàm số chi phí của 2 hay nhiều phương tiện sản xuất khác nhau, sơ đồ hình cây (cây quyết định) cũng rất hữu hiệu trong phân tích các quyết định về hoạch định năng lực sản xuất.

Các quyết định về hoạch định phương tiện sản xuất thì khó tổ chức và  khá phức tạp, vì chúng thường là các quyết định đa giai đoạn có liên quan đến nhiều quyết định và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau được hình thành trong một hệ thống. Sơ đồ cây được xây dựng cho các quyết định đa giai đoạn như là một công cụ trợ giúp cho các nhà quản lý  cần phải hiểu rõ những quyết định gì được hình thành, các quyết định đó xảy ra theo hệ thống nào, mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa chúng. Kiểu phân tích này cho phép các nhà quản lý:

  • Có thể vẽ ra các quyết định từ hiện tại đến tương lai.
  • Tìm ra được cách thức làm việc cho những sự kiện không chắc chắn.
  • Cách thức xác định giá trị tương đối của từng khả năng cho ra quyết định.

Ví dụ 4-1: Công ty M đang thiết kế một sản phẩm mới rất có triển vọng. Các nhà quản lý của công ty đang lựa chọn giữa ba khả năng:

– Bán bản quyền cho một công ty khác với giá 200 triệu đồng;

– Thuê một nhà tư vấn để nghiên cứu thị trường rồi mới đưa ra quyết định;

– Xây dựng nhà máy để tiến hành sản xuất.

Công tác nghiên cứu tốn kém 100 triệu đồng và các nhà quản lý tin rằng có 50% cơ hội có thể tìm kiếm được thị trường hấp dẫn. Nếu như công tác nghiên cứu này không thuận lợi, các nhà quản lý có thể tiếp tục bán đi bản quyền với giá 120 triệu đồng. Nếu như nghiên cứu này cho ra kết quả tốt thì công ty có thể bán đi ý tưởng có triển vọng với giá 400 triệu đồng. Nhưng ngay cả khi thị trường có triển vọng được tìm thấy thì khả năng thành công cuối cùng của sản phẩm là 40%. Một sản phẩm thành công sẽ sinh lợi 5 tỉ đồng. Thậm chí nghiên cứu không đạt kết quả, sự thành công của sản phẩm có thể là 1 lần trong 10 lần giới thiệu sản phẩm.

Nếu như các nhà quản lý quyết định sản xuất mà không cần tiến hành nghiên cứu, chỉ cón 25% khả năng thành công. Một sản phẩm thất bại sẽ tốn chi phí 1tỉ đồng . Công ty nên làm gì?

Lời giải bài toán:

Vẽ một sơ đồ hình cây từ trái sang phải với hình vuông đại diện cho các quyết định và vòng tròn ({) đại diện cho các sự kiện ngẫu nhiên.

Giá trị kỳ vọng của quyết định ban đầu là 660 triệu đồng. Kết quả của quyết định này được suy ra từ những nhánh không bị cắt từ trái sang phải: nghiên cứu, nếu kết quả tốt thì sản xuất; nếu kết quả không tốt thì bán.

Một điểm cần lưu ý trong việc giải thích giá trị kỳ vọng của phân tích sơ đồ cây, một lỗi mà chúng ta thường gặp là giải thích cho từng quyết định một cách chính xác và tuyệt đối. Các giá trị kỳ vọng chỉ là giá trị đo lường tương đối chớ không phải là giá trị tuyệt đối.

Khi năng lực của các phương tiện sản xuất hiện tại không đủ để đáp ứng nhu cầu về năng lực sản xuất trong dài hạn và các phương tiện sản xuất mới cũng cần được xây dựng, thuê mướn, hay mua thì vấn đề quan trọng mà chúng ta cần phải giải quyết là đặt chúng ở đâu ?